Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Tử Mỹ (2) sinh bình lũy khảm kha,
Hữu tài vô mệnh nại chi hà.
Tuyền đài đàn trúc đăng văn bá,
Chiên tọa phong xuy thấp tửu ma.
Chương sớ dĩ thù dương thế vọng,
Thi thư tằng chính hậu nhân ngoa.
Quy sơn bất tận tình trung khúc,
Dạ dạ phần tiền khởi nộ ba.
Dịch nghĩa: Khóc Đặng Cửu Tư tiên sinh
Tử Mỹ sinh bình nhiều phen trắc trở,
Có tài mà mệnh không ra gì, biết làm sao.
Dưới suối vàng đàn dựng ông đáng lên ngôi văn bá,
Đệm bằng lòng ngồi, gió thổi khóc ma rượu.
Bản sớ dâng đã đáp ứng được lòng trông đợi của người đời,
Thi thư từng đính chính lại sự sai lầm của người sau.
Về núi nhưng khúc nhạc tình cảm vẫn không dứt,
Đêm đêm trước mộ còn dấy lên làn sóng giận dữ.
Chú thích
(1): Chú thích của Trịnh Hoài Đức: Hồi mới Trung hưng, tiên sinh dâng “Trung hưng thập sách”, được chiếu bổ dụng chức Nội các học sĩ, nhưng trái ý với người đương quyền, lui về làm bài “Quy sơn thập vịnh”, lấy thơ rượu làm vui. Ông mất, mộ táng ở bờ biển trấn thành Bình Thuận.
(2): Tử Mỹ: tên tự của Đỗ Phủ (712 – 770), người Tương Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Ông còn có hiệu là “Thiếu Lăng dã lão”.
Hoài Anh dịch thơ
Thiếu Lăng trải lắm gian truân,
Có tài vận hẩm, chịu phần nổi trôi.
Suối vàng, văn bá xứng ngôi,
Gió khóc ma rượu từng ngồi đệm chiêng.
Sớ dâng nức tiếng đời khen,
Thi thư sửa lỗi ngoa truyền người sau.
Về núi, tình vẫn dạt dào,
Trước mồ sóng giận ào ào dấy lên.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.