Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm (*)
Dạ thâm phản trắc bất thành miên,
Chí trượng liêm tiền dục vấn thiên.
Cố ảnh tự tư ưng cốt sấu,
Phủ khâm trường hận vị danh triền.
Bệnh thân thùy huệ quân thần dược. (1)
Trái chủ thời tăng mẫu tử tiền. (2)
Tri thị cố nhân đồng nhất dạng,
Tinh tinh tương tích cựu tình khiên.
Dịch nghĩa: Trong lúc bệnh được thư Hoàng Hối Sơn cũng đang bệnh, viết gửi
Đêm khuya trăn trở không ngủ được,
Chống gậy đến trước rèm muốn hỏi trời.
Soi bóng tự thương mình xương gầy,
Vỗ chăn hận mình bị cái dang ràng buộc.
Thân bệnh ai ban cho thuốc quân thần,
Chủ nợ luôn tăng thêm tiền mẫu tử.
Biết rằng cố nhân cũng giống như vậy,
Tình cũ vấn vít như đười ươi thương tiếc cho nhau.
Chú thích
(1): Quân thần dược: trong một bài thuốc bắc, có vị chủ yếu gọi là vị quân (vua), vị phụ trợ gọi là vị thần (tôi).
(2): Mẫu tử tiền: trong món mợ, tiền gốc coi là tiền mẫu (mẹ), tiền lãi coi là tiền tử (con), có khi còn nói lãi mẹ đẻ lãi con.
Hoài Anh dịch thơ
Đêm khuya trằn trọc không an,
Chống gậy đến trước rèm toan hỏi trời.
Soi gương vóc hạc xương mai,
Cái danh cứ trói buộc hoài thân a?
Thuốc quân thần ai cho ta,
Tiền mẫu tử chủ nợ già tay tăng.
Biết cố nhân cũng khó khăn,
Tình xưa vấn vít nên hằng thương nhau.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.