Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Bách hoa tiều tụy nhập cùng đông,
Sơn thượng thương mang tiện hữu tùng.
Sương tuyết tuế hàn điêu giác hậu,
Diệp kha thời quán thúy di nùng.
Phong phiêu nhã vận lai ngâm hạc,
Thạch ủng kỳ tư khởi trập long.
Lang miếu đống lương (1) trường cửu kế,
Lương công xả ngã cánh hà dung.
Dịch nghĩa: Tùng mùa đông
Trăm hoa đi vào cuối mùa đông tiều tụy,
Trên núi mênh mang đáng khen cây tùng.
Sau khi biết sương tuyết năm rét làm cho điêu tàn,
Lá cành lúc nào cũng giữ được sắc biếc đậm.
Hạc đến ngâm gió bay vờn thanh nhã,
Đá mang dáng lạ như rồng nấp vươn dậy.
Có kế lâu dài làm rường cột triều đình,
Người thợ mộc bỏ ta thì kém cỏi biết bao.
Chú thích
(1): Lang miếu: triều đình,
Đống lương: bộ phận quan trọng trong cái nhà (đống là đòn nóc nhà, lương là cái rường nhà), nghĩa bóng là người tài có thể đảm đương công việc quan trọng cho nước.
Hoài Anh dịch thơ
Trăm hoa tiều tụy cuối đông,
Đáng khen trên núi cội tùng trơ trơ.
Biết sương tuyết làm xác xơ,
Lá cành vẫn cứ mởn mơ xanh rờn.
Hạc ngâm vận nhã gió vờn,
Đá mang dáng lạ rồng vươn trập trùng.
Đống lương dành sẵn để dùng,
Bỏ ta, người thợ ấy không ra gì.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.