Bản gốc chữ Nho (*)
Phiên âm
I.
Học đồng sương lý hồng kiều khứ,
Điếu tẩu yên lăng thủy hử ca.
Thôn lạc sinh nhai cần thiếu phụ,
Thiềm tiền yêu nghiệt giản miên hoa.
II.
Địa chẩm thần hôn nam bắc thị,
Môn nghinh triều tịch khứ lai chu.
Dạ thâm phong quá hoa song hạ,
Tào tán thư thanh bạng thủy lưu.
Dịch nghĩa: Tạp vịnh về cảnh thôn quê Long Tịch
I.
Trong sương, học trò nhỏ đi theo lối cầu cong,
Khói tỏa, ông lão câu hát trên bến nước.
Thiếu phụ thôn quê sinh nhai cần mẫn,
Trước thềm chờ trăng sáng, chọn nhặt hoa bông.
II.
Chỗ ở gối liền chợ Bắc, Nam, đôi phiên chiều sáng.
Cửa đón thuyền qua lại, hai chiều nước rặc nước lên.
Đêm khuya gió qua cửa sổ hoa,
Ồn ào tiếng đọc sách hòa cùng tiếng nước chảy.
Hoài Anh dịch thơ
I.
Học trò sương dẫm lối cầu cong,
Ông lão buông câu hát bến sông.
Thôn xóm chuyên cần người thiếu phụ,
Trước thềm trăng sáng nhặt hoa bông.
II.
Bắc Nam họp chợ phiên hôm sớm,
Cửa đón thuyền qua lựa cữ triều.
Khuya khoắt song hoa hơi gió tạt,
Tiếng người đọc sách nước hòa reo.
Nguyễn Văn Sâm dịch thơ
I.
Cầu vòng trò nhỏ trong sương sớm,
Ông lão buông cần cất tiếng ca.
Lặn lội thân cò người thiếu phụ,
Ngồi trông trước cửa nhặt cành hoa.
II.
Bắc Nam, phiên chợ khi hôm sớm,
Xuôi ngược, ghe thuyền nước thủy triều.
Gió thổi cửa hoa, đêm sắp sáng,
Rì rào đọc sách, nước trôi nhiều.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.