028 – Thương nhân phụ

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Tự tòng phu tế tố phong (1) tầm,

Hương tận đăng tàn lãnh tú khâm.

Phá mộng anh phiên tình tự ác,

Chức sầu liễu tỏa áo nùng thâm.

Điếu quy hải trở quy kỳ ngộ,

Ký nhạn sơn cao khứ tín trầm.

Ưng hối nang không thường tụ thủ,(2)

Miễn nùng tần tước thạch liên tâm.

Dịch nghĩa: Vợ lái buôn

Từ ngày chống đi kiếm mối lợi,

Hương tắt đèn tàn chăn gấm lạnh lùng.

Vẹt kêu làm tan giấc mộng, tình tự rất xấu,

Khung dệt buồn liễu rũ kín, càng thêm ảo não.

Câu rùa, biển cách trở, ngày về lỡ hẹn,

Gửi nhạn núi cao thư tới chậm.

Hối hận trước đây đừng than túi rỗng thường phải bó tay,

Nếu thế mình khỏi phải luôn gậm nhấm nhân sen đắng.

Chú thích

(1): Tố phong ý nói người không làm quan mà tự có thu nhập từ ruộng vườn cung cấp, còn gấp bội người được phong tước.

(2): Trước đây người ta thường hay than rằng “Sàng đầu kim tận, tráng sĩ vô nhan; nang nội tiền không, anh hùng tụ thủ” nghĩa là “đầu giường tiền hết, tráng sĩ khó mở mặt; trong túi tiền không, anh hùng cũng phải bó tay.

Hoài Anh dịch thơ

Từ chồng cất bước đi buôn,

Hương tàn đèn tắt, lạnh buồn gối chăn.

Vẹt kêu tan giấc mộng xuân,

Khung sầu liễu khóa, muôn phần ủ ê,

Biển cách trở, lỡ hẹn về,

Núi cao thư nhạn khó bề tới bên.

Nếu đừng than nỗi nghèo hèn,

Thì giờ khỏi nhấm nhân sen đắng hoài.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!