Bản gốc chữ Nho (*)
Phiên âm
Thập niên cửu tiếu Phùng sinh (1) giáp,
Thiên lý dao thừa Phạm tử (2) chu.
Trùng thủy trùng sơn song nhãn lý,
Cố nhân cố quốc ngũ vân đầu.
Vũ Lăng (3) lộ điểu như nan vấn,
Phụ quách điền hoang mục bất lưu.
Nhập thế tự ông năng xuất thế,
Thử trung hà đạo khả tương chu.
Dịch nghĩa: Chân Lạp gửi cho Hứa Hoa Phong
Mười năm kiếm Phùng Hoan nằm lâu trong vỏ,
Ngàn dặm xa đáp thuyền Phạm Lãi.
Dõi con mắt chỉ nhìn thấy muôn trùng nước non,
Lòng nhớ cố nhân nước cũ gửi vào đám mây.
Vũ Lăng đường mờ mịt khó hỏi ông chài,
Ruộng gần thành quách bỏ hoang, người chăn súc vật không lưu lại.
Như ông nhập thế được mà xuất thế cũng được,
Trong đó có đạo lý gì xin chỉ giúp nhau.
Chú thích
(1): Phùng Hoan làm tân khách trong nhà Mạnh Thường Quân.
(2): Phạm tử tức Phạm Lãi, người đất Uyển nước Sở, làm quân sư cho nước Việt thời Xuân Thu.
(3): Vũ Lăng là nơi biệt lập, cách xa thế tục, thực ra đây là thế giới lý tưởng do Đào Tiềm (đời nhà Tấn, Trung Quốc xưa) tưởng tưởng ra.
Hoài Anh dịch thơ
Gươm Phùng Hoan rỉ trong bao,
Con thuyền Phạm Lãi năm nao đáp nhờ.
Nhìn xa non nước mịt mờ,
Lòng nhớ bạn gửi mây đưa tới cùng.
Vũ Lăng lối cũ mịt mùng,
Ruộng hoang cỏ rậm, mục đồng bỏ đi.
Như ông xuất, xử tùy nghi,
Bên trong có đạo lý gì, chỉ cho.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.