Bản gốc chữ Nho (8)
Phiên âm
I.
Thiên lý cô bồng tích lãng lai,
Cửu kinh Tiên phố bạc Kim đài.
Xuân quy thượng tác tha hương khách,
Hương tin bằng thùy ký dịch mai.
II.
Man yên địa giá thiên trùng lộ,
Việt khách thiên nhai nhất đoản bồng.
Tam kính Đào hoa (1) khai ngọ dạ,
Ngũ canh Trang điệp trục đông phong.
Dịch nghĩa: Ở lâu Chân Lạp
I.
Ngàn dặm thuyền cỡi rạch sóng tới,
Đã lâu trải qua Tiên phố đến đậu ở chùa Vàng.
Xuân về vẫn còn là khách tha hương,
Tinh hương nhờ ai gửi trạm mai.
II.
Khói đất Man nơi hẻo lánh đường ngàn trùng,
Khách Việt chân trời một chiếc thuyền nhỏ.
Ba luống hoa của Đào Tiềm (cúc) nở nửa đêm,
Năm canh, bướm của Trang Chu đuổi gió đông.
Chú thích
(1): Tam kính đào hoa: ba luống cúc của Đào Tiềm, người Sài Tang, Tầm Dương (nay là Cửu Giang, Giang Tây), Trung Quốc.
Hoài Anh dịch thơ
I.
Ngàn dặm thuyền côi rạch sóng khơi,
Từ Tiên phố đến đậu Kim đài.
Xuân về vẫn khách tha hương nhỉ,
Tin tức nhờ ai gửi trạm mai.
II.
Góc bể chân mây cách vạn trùng,
Bên trời thuyền khách Việt bềnh bồng.
Nửa đêm luống cúc Đào Tiềm nở,
Bướm mộng Trang Chu đuổi gió đông.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.