Bản gốc chữ Nho (*)
Phiên âm
Bốc trạch đắc kỳ sở,
Siêu nhiên dĩ bảo chân.
Trúc ly tam khúc kính,
Thôn xá nhất nhàn nhân.
Thảo kết đình tiền thụ,
Thư tàng tịch thượng trân.
Bất tham kim khí địa,
Nhàn mịch hạnh hoa xuân.
Dịch nghĩa: Đề chỗ ở ẩn của Ngô Tòng Châu
Bói chọn được nơi làm nhà tốt,
Đứng ngoài cuộc thế để giữ lấy cái chân.
Giậu trúc ba luốn cúc,
Nhà trong thôn một người nhàn.
Cỏ be65nn dây tua đeo ấn trước sân,
Sách chứa là món quý trong tiệc.
Không tham nơi có hơi vàng,
Nhàn tìm kiếm cái xuân của hoa hạnh.
Chú thích
(1): Ngô Tùng Chu: thường đọc là Ngô Tòng Châu, quê huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, học trò Võ Trường Toản. Buổi đầu làm Hàn lâm viện Chế cáo, rồi làm Điền Tuấn quan cùng với Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và hơn 10 người nữa coi việc khai khẩn ruộng đất.
Sau ông thăng chức Tham tri bộ Lễ kiêm việc dạy dỗ Đông cung Cảnh, con lớn Nguyễn Ánh. Năm 1799, ông phụ tá Võ Tánh trấn thủ thành Bình Định. Năm sau bị đại tướng Tây Sơn vây thành rất ngặt, trong thành hết lương không thể chống nổi, ông uống thuốc độc mà chết. Võ Tánh cũng tự thiêu sau ông hai ngày.
Hoài Anh dịch thơ
Chọn được nơi tốt làm nhà,
Đứng ngoài cuộc giữ cái “ta” vẹn toàn.
Giậu trơ ba luống cúc vàng,
Một người nhàn ở trong làng, vui sao.
Trước sân, cỏ bện dây thao,
Sách là món quý tiệc nào bằng đây.
Đất có hơi vàng, chẳng dây,
Xuân trong hoa hạnh, nhắn hay kiếm tìm.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.