Nói về Ngô Bác Lãm nội trong ba ngày thì đà thiệt mạnh; từ ấy laon phụng vui vầy một cặp sắc tài mà gặp gỡ nhau rồi, thì sự vui thú nói sao cho cùng đặng; lại thêm cảnh đẹp nhà xinh, trong ngoài chẳng thiếu vật chi cả thảy; khi rượu, khi cờ, khi đờn, khi nhảy; khi đàm luận thế tình, khi dạo chơi cảnh vật; khi trời chiều hóng mát; khi đêm tối coi sao; khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên; thật là vua chúa trong đời cũng chưa sánh kịp.
Mê mẩn say vui với nhau như vậy trọn bốn tháng trời, thương da, thương diết; song có một điều Ngô Bác Lãm lấy làm lạ là cô ta chẳng hề chịu đọc nguyên do lý lịch mình cho Ngô Bác Lãm nghe khi nào cả. Có nhiều khi Ngô Bác Lãm hỏi tra, thì cô ta đổi vui làm sầu mà rằng:
– Chàng đà thương thiếp, chàng muốn cho thiếp hưởng đặng chút khoái vui của trần nầy là chốn thiếp từ nhỏ đã từng gian khổ, chớ chưa biết đến cái vui là gì. Nay nhờ có gặp chàng đây, mà thiếp nếm đặng mùi vui, thì ân ấy thiếp ghi tâm khắc cốt. Song thiếp xin một điều là chàng đừng tìm rõ lý lịch thiếp mà chi; vì nay thật chưa nên nói đến, chớ có ngày chàng sẽ biết mà. Thiếp đã sắp đặt kỹ cang rồi, thiếp chẳng phải cố ý giấu chàng cho mãn kiếp đâu. Nay cứ kêu tiểu danh của thiếp là Ca My (Camilly) thì đã đủ rồi.
Ngô Bác Lãm thấy bèn không dám gạn hỏi lời chi về việc ấy nữa, cho nên ở với nhau đã bốn tháng trời, mà chỉ biết có một cái tiểu danh cô nọ đó thôi. Ban đầu Ngô Bác Lãm còn có ý lục soạn giấy tờ mong tầm cho biết nhưng lục hoài mà chẳng té mối mang chi, nên sau cũng bỏ qua không còn nghĩ tới.
Ngày kia Ngô Bác Lãm được tin ở Ba Ri kêu về có việc rất cần, anh ta liền trao thơ ấy cho cô Ca My xem, thì cô nọ lấy làm buồn thảm mà rằng:
– Chàng hãy sửa soạn mà đi lập tức. Thiếp thật thương chàng, vắng một bữa ắt lòng khô dạ héo; song thiếp chẳng phải như bọn nữ nhi thường tình kia, kể việc say vui máu thịt, mà chẳng kể danh phận của người thương, rì rịt quến đeo cho vừa lòng đẹp ý mình, khiến đến bại hoại tuổi tên trang hào kiệt. Vả lại thiếp biết con người sanh ra trên mặt đất nầy, chẳng phải để mà rượu mà đờn mà chơi mà giỡn như vậy hoài đâu. Công thiếp gian truân gần nửa đời người, tạo hóa đã rộng tình cho mấy tháng thung dung vui vẻ, ấy cũng đã vừa; thiếp há dám oán vưu mà kèo nài chi nữa hay sao? Thiếp xin một điều là chàng hãy gắng công cho danh vang huê hạ, thì dẫu cho số thiếp có chẳng dài, không đặng may mà tái ngộ đi nữa, ắt thiếp cũng vui lòng nhắm mắt vậy. Miễn là thiếp biết cái người đặng gần gũi thiếp; cái người đó với thiếp chẳng tiếc thân; cái người thiếp đã tám năm chọn kén, ấy chẳng phải là phường giá áo túi cơm; thì dẫu cho chàng nam thiếp bắc thiếp cũng vui lòng toại chí mà thôi. Chớ ví như chàng sớm tối chẳng xa mình thiếp, mà chàng để cho ra thằng có có không không chẳng hại chi đời, thì thiếp ắt tiếc thương thân thiếp, mà thiếp ăn năn tức tốc, oán trách ngày đêm dường ấy chàng há an lòng cho đặng sao? Vậy nay thiếp cũng đưa chàng về đến Ba Ri, rồi thiếp sẽ sang Mỹ quốc. Một là để cho chàng thong thả mà tung hoành với thế. Hai là nhờ chàng khuyên bảo bấy lâu, thiếp bỏ lòng ngán ghét thế tình, chừ thiếp mới hay rằng “bổn phận thiếp còn có chỗ chưa rồi cùng xã hội” nên thiếp phải trở sang Mỹ mà lo lắng cho thoàn. Ngày nào việc chàng rảnh đặng hay là việc thiếp xong xuôi thì chúng ta sẽ tính bề cang lệ. Chớ việc chàng nay hỡi oan ương, thiếp chẳng lẽ để cho chàng ở mãi nơi đây; mà phế quên hết điều phận sự.
Ngô Bác Lãm lấy làm khen phục chẳng cùng, hai người chửng mới sửa soạn trắm rương, qua sáng ngày sau mới xuống tàu mà trở lại Mạc Xây, rồi lên xe lửa thẳng về Kinh địa. Đến đây cô Ca My bèn thuê nhà cửa, sắm ghế bàn giường tủ, sắp đặt xong xuôi cũng hơn mươi bữa, rồi mới giã từ Ngô Bác Lãm mà trực chỉ Nhiêu Do.
Ngày biệt nhau đây thì cô ta sái lụy dầm dề mà nói với Ngô Bác Lãm rằng:
– Thiếp tuy hiểu biết chi thì mặc dầu, chớ hóa công sanh thiếp là phận nữ nhi, thì gan ruột thiếp có khác chi ruột gan cả phường khăn yếm kia sao. Bởi vậy cái khóc đây là khóc của ruột gan một người đờn bà từ giã người thương đó mà thôi, chớ chẳng phải khóc của cái tình từ Ca My đâu nhé. Xin chàng chớ có hiểu lầm mà quên điều sốt sắng việc mình, để cho không rồi phận sự, thì chừng ấy thiếp thà ôm thảm chịu sầu, chớ chẳng để cho chàng thấy mặt nữa đâu.
Ngô Bác Lãm nghe vậy thì lụy ứa đôi hàng, đạon mới hôn nhau một lần chót hết mà phân tay.
Từ đây hai đàng kẻ Nhiêu Do người Pháp địa, tin tức lại qua chẳng dứt. Được một tháng trường, lúc ấy Ngô Bác Lãm rảnh rang công việc bèn tính rằng: “Chừ ta ở đây cũng chưa có việc chi, vậy ta sang Tân thế giới trước là thăm viếng Ca My, sau nữa xem coi thành thị chơi cho biết; song nếu ta thông tin trước thì mất hết chỗ hay. Ta để thình lình đang khi chẳng đợi mà ta bước vô nhà thì mới thú cho. Một là làm cho cô ta mừng quýnh. Hai là may khi tình cờ như thế mà ta rõ đặng mối mang tông tích chi chăng? Chớ có đâu mến thương nhau, ăn ở với nhau, tính việc tơ duyên cùng nhau, mà không rõ đặng người ấy là ai, có phải là lạ chưa?”
Nghĩ vậy bèn vội vàng thẳng tuốt ra Hao (Havre) xuống tàu Pháp mà sang qua Mỹ; năm ngày tròn mới đến Nhiêu Do. Vừa bước lên bờ thấy thành thị mà kinh mà ngán; thiên hạ cứng khừ chật nứt đàng sá kẹo lền; lầu đài tột đến mây xanh; nhiều cái bốn năm mươi từng chất ngất.
Dưới đất thường nghe chuyển động đùng đùng dường thể hỏa diệm sơn muốn nổ; ấy là trái phá bằng vỡ đất ra, đặng đặt đường địa huyệt điển xa cùng là cống nước; trên không lại lắm khi nghe ầm ạp vang trời, chẳng khác sấm vang lôi giáng, ấy là hỏa xa trên không khí nó chạy qua.
Đường sá thì đông như kiến cỏ, mà xe điển, xe hơi, xe hỏa vụt vụt tới lui, chẳng dừng chẳng chậm chút chi cả; tiếng xe, tiếng ngựa, tiếng ốc, tiếng còi, tiếng chuông, tiếng kiểng động đất rền trời, vang tai lói óc. Những người xưa nay chẳng biết Âu châu, đem bỏ đấy thì tài gì mà không khóc. Ngô Bác Lãm bấy lâu giang hồ đủ xứ mà thấy vậy còn phải dửng dưng thay.
Vào mấy cái nhà to nơi đường chánh, thì trong một nhà đôi trăm hãng buôn to; thiên hạ lền khên chẳng khác ổ ong hang kiến; dùng máy điển mà đưa người lên xuống các từng lầu lẹ mau thoát thoát. Nơi chánh môn có sắp một người, đứng hô lớn cho ai ai thảy biết rằng; máy nào đưa tới từng nào, máy nào thẳng lên chót vót; máy chạy chậm thì mỗi từng mỗi ghé, máy chạy mau thì ngừng đôi chỗ mà thôi.
Bởi vậy cho nên muốn kiếm ai, ở tại từng nào, phía nào, phải cho rõ chắc, chớ nếu mơ hồ thì trong một nhà mà tìm cũng khó ra, lựa là đến khác nhà khác chỗ.
Vậy Ngô Bác Lãm tới nơi rồi thì kêu xe chở đồ thẳng đến nhà hàng, sắp đặt an nơi, chửng mới đi tầm cô nọ.