Phần 08: Câu 785 – 890: Chung

Khi ăn khi ngủ phải thăm,

Mẹ nằm bên ướt, con nằm bên khô;

Mãn nghe con khóc ô ô,

Đói ăn khát bú kĩ dò chớ sai;

Dầu sanh tạp chủng một hai,

(Câu 790) Bệnh trong tâm phúc, bệnh ngoài bì phu;

Riêng chăm thuốc uống thuốc đồ,

Kiêng ăn nhịn ngủ sợ lo ân cần;

Trẻ thơ vừa lúc hay ăn,

Miệng nhai cơm búng, tay mằn cá xương;

Áo chăn may vá lặp lường,

Thước dài thước vắn xem đường dọc ngang;

Những là vóc nhiễu bạc vàng,

Chớ đeo chớ mặc ra đàng phải tai;

Thủy ngân thạch tín mọi loài,

(Câu 800) Kiếm nơi cất kín kẻo mai con lầm;

Dây thừng, dao búa, chùy châm, (183)

Đồng tiền chiếc đũa con cầm chớ trao;

Thần linh miễu thẳm điện cao,

Đừng cho xông xáo bước vào hại con;

Biết đi biết chạy lon bon,

Giữ gìn nước lửa cho tròn thỉ chung;

Khí trời nóng lạnh tố dông,

Những hơi sương gió chớ bồng con ra;

Lớn lên gái mẹ trai cha,

(Câu 810) Tôn thầy gần bạn, đều là chánh nhơn;

Trà đình tửu tứ chớ thân, (184)

Sĩ nông công cổ bốn dân tập rèn; (185)

Ơn thầy ngãi bạn giả đền,

Ít nhiều hậu bạc theo nền nếp ta;

Tới ngày nam thất nữ gia, (186)

Vợ chồng định liệu cửa nhà qui mô; (187)

Ví dầu di phúc thác cô, (188)

Hết lòng dưỡng dục mới phô rằng người;

Trẻ thơ tính nết hay chơi,

(Câu 820) Mình làm mẹ nó chớ dời con ta;

May mà con có thầy cha,

Tay dìu miệng dắt phận ta đã rồi;

Ví bằng mẹ góa con côi,

Cần nên dạy bảo khi ngồi khi ăn;

Nào là gà đá muôn săn,

Bạc cờ đĩ thỏa áo khăn dập dìu;

Nào là bạn quỉ bạn yêu,

Trường chay đám bội rủ kêu đêm ngày;

Nào là trà tỉnh rượu say,

(Câu 830) Bàn đèn ống điếu bắt tay chào mời;

Nào là cá nước chim trời,

Rày câu mai bán khắp nơi quên về;

Nào là ăn nói u mê,

Cắt tay đặt miệng kẻ chê người cười,

Kể chi con một con mười?

Mình làm đạo mẹ cạn lời với con;

Bằng đà nói ngọt nói ngon,

Mà con nghịch mạng đánh đòn cho đau; (189)

Cửa buồng ngăn trước ngăn sau,

(Câu 840) Trong màn ngoài sáo bảo theo phép nhà;

Gái nầy mười tuổi xa cha,

Trai kia mười tuổi nằm xa mẹ mình;

Nàng dâu chàng rể đã đành,

Tớ trai tớ gái thuộc thành áo cơm;

Chớ cho lửa bén gần rơm,

Ếch nầy giếng nọ người đơm kẻ bày;

Vật chi trao chịu sang tay,

Lựa nơi mà đặt giữ ngày như đêm;

Dầu mà thuốc vấn trầu têm,

(Câu 850) Có cơi có hộp chớ hiềm không đưa;

Cấm đừng hoa nguyệt kéo cưa,

Hát đi hát lại lọc lừa tiếng dâm;

Cũng đừng vào chốn tối tăm,

Nghiêng tai nói nhỏ lâm râm nhiều lời;

Dầu khi đi đứng gần nơi,

Phải lên tiếng trước cho người sửa sang; (190)

May ra mình lấy chồng sang,

Hay là quyền chức đi đàng công danh;

Khuê môn mình giữ phận mình,

(Câu 860) Nhẽ đâu nói việc triều đình làm chi?

E mình là đứa vô tri,

Đưa dây dứt mối có khi mà lầm;

Huống chi mình lại hắc tâm,

Ngửa tay cất lấy huỳnh câm đem vào;

Ví dầu trà đặt bánh trao,

Không bao nhiêu đó cũng giao lại người;

E mai tội lệ tới nơi,

Đồ lưu trảm giảo muôn đời đục nhơ;

Bằng may lánh khỏi bấy giờ,

(Câu 870) Của nầy phi ngãi cũng chờ lúc ra;

Nào là địa ngục dạ xoa,

Nào là phá háo sao sa cửa mình?

Luật trời phép nước chẳng khinh,

Chi bằng giữ vẹn liêm trinh mà nhờ; (191)

Bạn hiền mời rước đợi chờ,

Những người đàng điếm đi ra cho rồi;

Ví bằng đứng đứng ngồi ngồi,

Nào ai  phải lứa vừa đôi chi mà?

Một mai miệng lỡ chơn sa,

(Câu 880) Lấy theo nết nó, nết ta chi còn?

Cho hay đen mực đỏ son,

Lại thêm ống méo bầu tròn những xưa;

Vậy nên phải luận người ưa,

Những trang thục nữ ta đưa bạn về;

Rồi ra tập nết tập nghề,

Công, dung, ngôn, đức bốn bề đều xong;

Chị em chung thỉ một lòng,

Sau thầy trước bạn chớ hòng phụ ai; (192)

Những điều dạy bảo một hai,

(Câu 890) Tám mươi ba tiết lòng dài ý sâu;

Những người làm gái làm dâu;

Cùng là làm mẹ vẹn đầu vẹn sau;

Nói chi hèn khó sang giàu?

Trẻ già lớn bé nhủ nhau một bề;

Sao cho khỏi nhuốm thói mê,

Ấy là đặng chữ gia tề tốt thay;

Khí hòa vầy hiệp từ nay,

Trời đưa phước lộc một ngày một lên;

Trăm năm vàng cứng đá bền,

(Câu 890) Dặn cùng ai nấy chớ quên dạy nầy.

—————  Chung ————–


Dẫn giải của Trương Vĩnh Ký

(183): Dây thừng = dây chạc; chùy = dùy; chàm = kim

(184): Trà đình tửu tứ … tới quán tới đình mà uống trà uống rượu.

(185): Bốn dân là sĩ, nông, công, cố (thương).

(186): Nam thất nữ gia (= nam trưởng nhi nguyện chi hữu nhất; nữ trưởng nhi nguyện chi hữu gia) = chỉ cưới vợ gả chồng cho con.

(187): Qui mô là mối giềng, nhà cửa, từ ngần

(188): Di phúc thúc cô = này ruột gởi kẻ mồ côi.

(189): Tiết 80 dạy phải giữ gìn con, khi nó còn dại, khi nó lớn lên thì phải răn he, đừng cho đẻ hoang theo chúng bạn buông lung chơi bời; thương con nói ngọt nói ngon không đặng, nó không nghe lời thì phải đánh mà sửa dạy nó.

(190): Mẹ phải dạy con ở có ngăn có lớp có thứ tự phân biệt trai với gái; dầu đầy tớ cũng vậy. Đứng cho lân la giỡn hớt cọ vai cọ vế, hát ghẹo hát chọc hoa tình lẳng lơ, …

(191): Tiết 82 dạy vợ dầu có chồng sang làm quan thì cứ khuê môn phận mình mà giữ, chớ có ra nói leo việc triều đình, mà lầm lỗi lỡ làng. Lại chẳng nên có lòng tham mà ăn của hối lộ ton lót; dầu lễ lộc cũng trả lại, một là sợ e sau mang tội lệ mà hư danh mất tiếng, hai là vì nó là của phi ngãi, nó chẳng có bên, nó sẽ ra mà thôi, còn mình mang tội với trời mà khốn, chi bằng giữ đức liêm trinh để mà nhờ thì hay hơn.

(192): Tiết 83. Dạy vợ sang chọn người mà làm bạn mà chơi; quân đàng điếm thì xa lánh đi kẻo lây nết nó, chơi với người tử tế, cũng lo công ăn việc làm cho trọn tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh, ở cho có hậu thỉ chung cho vẹn mọi bề.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!