147 – Ngũ Hiểm than (1)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Vân sạn tằng văn Thục đạo nan (2)

Hoành châu Ngũ Hiểm diệc nguy than.

Quải xà lập bích sài đương lộ,

Bác thố bôn lưu thạch khích suyền.

Quyển mạn hành nhân tâm khởi kính,

Chưởng cao chu tử khẩu thôn toan.

Hổ khiêu tài thướng Long môn hạ,

Ba hám phong dao Mã Viện (3) đàn.

Dịch nghĩa: Bãi Ngũ Hiểm

Đường sạn đạo cao tới mây từng nghe đường Thục khó,

Ngũ Hiểm ở Hoành Châu cũng là bãi nguy hiểm.

Rắn treo vách dựng sài lang chắn đường,

Bắt thỏ, dòng nước được đá khích càng chảy xiết.

Cuốn màn người đi đường nổi lòng kính sợ,

Chống sào người chở thuyền miệng nuốt chua cay.

Hổ nhảy mới trèo lên, cửa rồng đã xuống,

Sóng gió lay lắc đàn Mã Viện.

Chú thích

(1): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Bãi Ngũ Hiểm ở Hoành Châu, thuộc Trung Quốc.

(2): Bài thơ Thục đạo nan (Đường Thục khó) của Lý Bạch.

(3): Mã Viện là một vị tướng đời nhà Hán, Trung Quốc.

Hoài Anh dịch thơ

Từng nghe đường Thục khó khăn,

Bãi Ngũ Hiểm chẳng kém phần gian nan.

Rắn treo vách, sói chặn đàng,

Nước chồm bắt thỏ, đá ngang khích dòng.

Người qua kính sợ trong lòng,

Đắng cay đời kẻ nhọc công chở thuyền.

“Hổ nhảy” xuống, “cửa rồng” lên,

Sóng lay gió lắc ngôi đền Phục Ba.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!