Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Kỳ viên (1) duy thị lạc yên hà,
Phân tắc Tào Khê tịnh thổ gia. (2)
Thần khấu hồng chung tinh thế mộng,
Dạ huyên bối diệp (3) khán thiên hoa.
Liễu thùy ngạn phúc thừa cam lộ,
Nguyệt ấn hà tâm chiếu kiếp sa.
Trữ kiến bồ đoàn kinh tọa phá,
Tiền đồ nhất vĩ hựu hà già.
Dịch nghĩa: Tặng lão thiền sư Dương Tuyền ở chùa Hưng Long
Kỳ viên chỉ có người là vui thú yên hà,
Được phân ngôi nhà ở tịnh thổ Tào Khê.
Sáng gõ chuông lớn tỉnh mộng trần,
Đêm tụng kinh lá bối xem hoa trời.
Liễu rủ sườn bờ thừa hưởng móc ngọt,
Trăng in xuống lòng sông chiếu hạt cát của kiếp.
Lặng nhìn bồ đoàn ngồi lâu đã rách,
Mai ngày một nhành lau thả có ai ngăn được.
Chú thích
(1): Kỳ viên: vườn ở cõi Phật.
(2): Tào Khê: là một chi phái của đạo Phật.
Tịnh thổ: đất thanh sạch, cũng được dùng để chỉ cõi Phật.
(3): Bối diệp: lá của cây bối đà la ở Ấn Độ, người xưa dùng viết kinh.
Hoài Anh dịch thơ
Vườn Kỳ riêng thú ráng mây,
Tào Khê chọn được đất này an vui.
Chuông khua tỉnh mộng trần ai,
Tụng kinh lá bối hoa trời rắc quanh.
Liễu bờ hưởng móc ngọt lành,
Lòng sông trăng chiếu rành rành kiếp sa.
Bồ đoàn rách tháng năm qua,
Nhàn lau mai thả khó mà ai ngăn.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.