Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Kiệu tự phi vân khách tự hồng,
Dạ nhi kế nhật bắc nhi đông.
Sĩ phu quát mục khan bàng đạo,
Thảo mộc jhuy tâm bái hạ phong.
Điền thục hạ lương phì ngõa tước,
Thành trì trú lậu dật hoa thông.
Tuyệt yên hỏa xứ hoàn yên hỏa,
Tín thị càn khôn lộ bất cùng.
Dịch nghĩa: Trên đường ghi việc
Kiệu tựa mây bay khách tựa chim hồng,
Đêm lại tiếp ngày bắc rồi đông.
Sĩ phu ở bên đường nhìn bằng con mắt kính trọng,
Cây cỏ hâm mộ cam chịu bề dưới.
Ruộng lúa chín cao lương mùa hè béo chim sẻ,
Thành chậm giọt đồng hồ ban ngày rõ ngựa đen đốm trắng nhanh nhẹn.
Chỗ không có khói lửa nấu cơm vẫn có khói lửa nấu cơm,
Tin rằng trời đất đường không bao giờ cùng.
Hoài Anh dịch thơ
Kiệu tựa mây bay khách tựa hồng,
Đêm qua ngày tiếp bắc rồi đông.
Sĩ phu kính nể bên đường ngó,
Cây cỏ yêu vì chịu hạ phong.
Ruộng chín cao lương chim sẻ béo,
Ngày thưa giọt lậu ngựa đen dong.
Chỗ không khói bếp nay đùn khói,
Trời đất đường đi chẳng tận cùng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.