Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Quỳ hoắc (1) duy tri hướng nhật thầm,
Chu tao giác dĩ nhất niên thâm.
Mang trung ngẫu nhĩ lâm thiền thất,
Tịnh lý phiên nhiên hác đạo tâm.
Vũ toái kệ thanh hòa địa bảo,
Nguyệt trầm tháp ảnh (2) mãn giang kim.
Tây thiên hội hữu y quan phật,
Bất độc phi sa Quán Thế Âm. (3)
Dịch nghĩa: Sứ bộ dừng ở am Thiên Đô Hán Dương, lưu đề
Lòng thành quỳ hoắc chỉ biết hướng về mặt trời,
Thời gian xoay vòng đã một năm rồi.
Trong cái bận rộn ngẫu nhĩ vào nhà chùa,
Nơi thanh tịnh thảnh thơi mở ra lòng đạo.
Mưa xối tiếng kệ hòa với báu dưới đất,
Trăng chìm bóng tháp in xuống vàng đầy sông.
Chốn Tây Thiên cũng có Phật đội mũ mặc áo,
Không chỉ có Quán Thế Âm khoác cà sa.
Chú thích
(1): Quỳ hoắc: cây quỳ, cây hoắc, hai cây đều xoay theo hướng mặt trời. Hoa quỳ là hoa hướng dương. Hoắc là thứ rau tạp.
(2): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Tháp ở sau am kề sông.
(3): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Trong am chỉ thờ tượng lớn kim thân Quan Âm đại sĩ.
Hoài Anh dịch thơ
Lòng quỳ chỉ hướng vầng dương,
Thời gian đã một năm trường trôi qua.
Ngẫu nhiên đến cửa chiền già,
Tịnh tâm lòng đạo mở ra rộng dần.
Mưa rơi tiếng kệ trong ngần,
Trăng chìm bóng tháp sông ngân ánh vàng.
Tây Thiên có Phật y quan,
Đâu chỉ Quán Thế Âm choàng cà sa.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.