117 – Tế Phong đài (1)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Dao lỗ khinh chu lược thủy lai,

Nam Bình sơn hạ kiến di hài.

Lô hoa ỷ phụ nhương kỳ triển,

Nha sí phiên tùng vũ phiến khai.

Học cứu dã tri phong khả tá,

Vận di vô nại lực nan hồi.

Giang sơn ái hộ trung thuần tích,

Đồng Tước đương nhiên dĩ lục đài.

Dịch nghĩa: Đài Tế Phong

Khua chèo thuyền nhẹ lướt dòng nước tới,

Dưới núi Nam Bình thấy đài còn sót lại.

Hoa lau nép bến thuyền đậu cờ phất phới,

Cánh quạ trở trong lùm cây, lông xòa ra.

Lối học kiểu thầy đồ cũng biết có thể giúp cho phong hóa,

Thời vận chuyển dời biết làm sao, sức khó vạn hồi.

Nong sông yêu dấu che chở dấu tích trung thuần,

Đài Đồng Tước năm xưa nay đã phủ rêu xanh.

Chú thích

(1): Tế Phong đài: đài tế trời cầu gió đông.

Hoài Anh dịch thơ

Khua chèo thuyền nhẹ lướt trôi,

Nam Bình dưới núi dấu đài còn đây.

Hoa lau nép bến, cờ bay,

Cánh quạ trở giữa lùm cây, lông xòa.

Lối học thầy đồ ngày qua,

Nay thời vận đổi khó mà chuyển xoay.

Dấu trung thuần vẫn quý thay!

Đài Đồng Tước rêu phủ dày, ai thương?


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!