Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Vạn lai kê khuyễn dạ tương văn,
Đái Sở khâm Mân cửu quận phân.
Mục mã cấm tiền Nam tự đế,
Chử y tứ hậu Bắc tôn quân.
Hoàng hôn từ lãnh long xuyên nguyệt,
Bạch trú quan trầm hổ chướng vân.
Triều Hán (1) thượng lưu đương nhật khí,
Lam yên thần tịch tán hương huân.
Dịch nghĩa: Việt Trung hoài cổ
Muôn nhà đêm nghe thấy tiếng gà chó của nhau,
Dải đất Sở vạt áo đất Mân chia chín quận.
Trước khi cấm chăn ngựa, người phương Nam tự xưng đế,
Sau khi ban tứ áo bông, tôn vua ở phương Bắc.
Chiều ta đền lặng trăng sông rồng,
Ban ngày cửa quan trầm nặng, mây lam chướng rừng cọp.
Đài Triều Hán vẫn còn lưu khí ngày nào,
Khói lam chướng sớm chiều tỏa mùi hương cỏ thơm.
Chú thích
(1): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Triều Hán là tên đài.
Hoài Anh dịch thơ
Muôn nhà xúm xít chung quanh,
Vạt Mân dải Sở chia thành chín châu.
Người Nam xưng đế đã lâu,
Sau khi ban áo, sang chầu Bắc phương.
Sông rồng đền lạnh chiều sương,
Đám mây lam chướng ải vương mịt mờ.
Đài Triều Hán lưu khí xưa,
Khói lam mùi cỏ thơm đưa sớm chiều.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.