Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hổ Môn quan ngoại hải thôn thiên,
Phàm xả Nam Giao vạn lý thuyền.
Mặc thủy mạt sơn vân mộ bế,
Bạch hoa niêm thụ lộ tiêu miên.
Pháo oanh Sư Tử (1) trù canh định,
Địch yết Nga Nhi (2) khách mộng triền.
Diên hộ hậu triều tri nguyệt thướng,
Nhất cương ngư võng quát giang yên.
Dịch nghĩa: Đêm đậu thuyền ở cửa quan Hổ Môn
Ngoài cửa quan Hổ Môn biển nuốt trời,
Thuyền vạn dặm từ Nam Giao đi bỏ buồm.
Nước như mực bôi núi, mây tối khép,
Hoa trắng dán cây, cò ngủ đêm.
Tiếng súng vang pháo đài Sư Tử để định canh,
Tiếng sáo nghẹn ngào pháo đài Nga Nhi vấn vít mộng khách.
Thuyền nhân chờ thủy triều biết trăng lên,
Một lưới chài bao trùm cả khói sông.
Chú thích
(1): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Sư Tử: tên pháo đài sau cửa quan mỗi đêm bắn súng để định canh.
(2): Chú thích của tác giả Trịnh Hoài Đức: Nga Nhi: tên pháo đài.
Hoài Anh dịch thơ
Biển nuốt trời ngoài Hổ Môn,
Thuyền từ Nam Giao tới bỏ buồm lướt đi.
Nước mực bôi núi đen sì,
Cây hoa trắng dán, cò về ngủ yên.
Điểm canh, Sư Tử súng rền,
Nga Nhi tiếng sáo quấy phiền mộng ta.
Xem triều biết trăng lên mà,
Một mẻ lưới vét la đà khói sông.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.