079 – Quá Linh Đinh dương hữu cảm (1)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Thiên lý tinh sa trục thủy đông,

Linh Dinh dương lý văn phàm trung.

Hổ môn nha chế Lâm quan hiểm (2),

Bằng lĩnh bình khai tiếp địa hùng.

Triệu úy (3) lai thời Nam khí vượng,

Văn Sơn (4) quá hậu Tống quan không.

Vô cùng nhạc độc hưng vong cảm,

Đào khấp ba hào ngũ dạ phong.

Dịch nghĩa: Qua sông Linh Đinh xúc cảm

Ngàn dặm bè sao xuôi nước chảy về đông,

Cánh buồm chiều trên sông Linh Đinh.

Hổ môn răng chế ngự Lâm quan hiểm trở,

Bằng lĩnh như bình phong mở tiếp đất hùng tráng.

Khi Triệu úy Đà đến khí phương Nam vượng,

Sau khi Văn Thiên Tường mất thì cửa ải Tống trống không.

Có mối cảm vô cùng về núi lạch hưng vong,

Sóng nước khóa gào trong gió năm canh.

Chú thích

(1): Linh Đinh dương: Sông Linh Đinh hiện nay thuộc huyện Trung Sơn, tỉnh Quảng Đông.

(2): Lâm An: Khi khu vực sông Hoài bị lọt vào tay người Kim, vua Nam Tống chạy về Lâm An là nơi gần bể.

(3): Triệu úy: tức Triệu Đà.

(4): Văn Sơn: tên hiệu của Văn Thiên Tường (1236-1283), người Lư Lăng, Cát Châu, thuộc Trung Quốc xưa.

Hoài Anh dịch thơ

Bè sao ngàn dặm xuôi đông,

Sông Linh Đinh cánh buồm dong chiều tàn.

Hổ môn vững, hiểm Lâm quan,

Núi Bằng tiếp đất tựa dàn bình phong.

Triệu Đà đến, khí Nam hùng,

Văn Sơn mất, nghiệp Tống không còn gì.

Cảm miền non nước hưng suy,

Sóng gào gió khóc sầu bi đêm trường.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!