Sáng Chủ nhật tôi dậy lúc chín giờ, cạo mặt, giặt quần áo và đem phơi trên nóc nhà. Hôm ấy đẹp trời. Trong không khí đã thấy những hương vị đầu mùa của tiết thu. Chuồn chuồn ngô bay đầy quanh sân, chạy trốn bọn trẻ con khu phố đang cầm vợt đuổi theo chúng. Không có gió, lá cờ Mặt trời mọc ủ rũ trên cột. Tôi mặc cái sơ-mi mới là rồi đi bộ ra trạm tàu điện. Cảnh tượng khu sinh viên sáng Chủ nhật: đường phố vắng về, gần như không có ai, hàng họ đóng cửa gần hết. Những âm thanh ít ỏi vọng lại với một âm sắc rõ ràng đặc biệt. Một cô gái đi guốc bước lóc cóc qua mặt đường nhựa, và cạnh trạm tàu điện có mái che là bốn năm đứa trẻ đang ném đá một dãy vỏ đồ hộp. Có một tiệm bán hoa mở cửa, và tôi vào mua mấy bông thuỷ tiên. Mùa thu mà có thuỷ tiên! Thật lạ? Nhưng tôi vẫn thích thứ hoa này.
Chuyến tàu điện sáng Chủ nhật chỉ có ba bà già. Họ đều nhìn tôi và mấy bông hoa của tôi. Một bà còn mỉm cười với tôi. Tôi cười đáp lại. Tôi ngồi xuống hàng ghế cuối cùng và nhìn những ngôi nhà cổ trôi qua ngay sát cửa sổ. Tàu gần như sắp chạm cả vào những hồi nhà nhô ra. Sân phơi của một nhà có mười cái chậu trồng cà chua, cạnh đó là một con mèo đen to bự nằm sưởi nắng. Trong vườn một nhà khác có một đứa con gái bé tí đang thổi bong bóng xà-phòng. Tôi nghe thấy một bài hát của Ayumi Ishida văng văng từ đâu đó, và còn ngửi thấy cả mùi cà-ri đang nấu. Con tàu len lỏi qua cái thế giới sân sau riêng tư ấy. Dọc đường có thêm một vài khách lên tàu, nhưng ba bà già vẫn ngồi chụm sát lại và mải miết chuyện gì đó với nhau.
Tôi ra khỏi tàu ở trạm Otsuka rồi đi theo bản đồ của Midori xuống một phố rộng chẳng có gì mấy để xem. Không có cửa hàng nào trong phố ấy có vẻ phát đạt, toàn ở trong những toà nhà cũ có nội thất buồn thảm, nhiều biển hiệu đã phôi pha. Trông kiểu nhà thì có lẽ vùng này đã không bị ném bom hồi chiến tranh và cả dãy phố vẫn còn nguyên như cũ. Một vài chỗ đã được xây mới lại hoàn toàn, nhưng hầu hết đều được cơi nới thêm chỗ này cho kia, và chính những cơi nới ấy trông còn nhem nhếch hơn bản thân những toà nhà cũ.
Toàn bộ không khí của chỗ ấy khiến ta nghĩ rằng hầu hết nhưng cư dân gốc gác ở đây đã chán ngấy cảnh xe cộ đông đúc, không khí bẩn thỉu, tiếng ồn và giá thuê nhà cao, và đã dọn hết về các vùng ngoại ô, để lại toàn những căn hộ rẻ tiền, những văn phòng cho thuê và các cửa tiệm rất khó bán, cùng với một số ít những người còn ngang bướng bám chặt lấy tài sản để lại của gia đình. Mọi thứ đều mờ mịt và u ám như bị bọc trong một làn khói thải phun ra từ ống xả xe hơi vậy.
Sau mười phút đi bộ đọc dường phố ấy, tôi đến một trạm xăng góc đường, rồi rẻ phải vào một đoạn phố toàn những cửa hàng nhỏ, ở giữa có một tám biển đề Hiệu sách Kobayashi. Đúng là một cửa hàng nhỏ, nhưng cũng không đến nỗi nhỏ như mô tả của Midori. Nó điển hình là một hiệu sách khu phố, đúng như cửa hàng mà tôi vẫn chạy ù đến những hôm truyện tranh trẻ con vừa về số mới. Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi nhớ tiếc khi đứng trước cửa hiệu sách.
Toàn bộ mặt tiền của cửa hiệu được đóng kín bằng một cửa sắt cuốn có sơn in một quảng cáo tạp chí: “Tuần báo Bunshun có bán tại đây vào thứ năm hàng tuần.” Vẫn còn mười năm phút nữa mới đến giờ hẹn, nhưng tôi không muốn phải lang thang trong dãy phố đó với bó thuỷ tiên trong tay, nên cứ bấm chuông ở cạnh cửa rồi lùi lại vài bước đứng đợi. Mười lăm giây sau vẫn không thấy gì, và đang chưa biết có nên bấm chuông nữa hay không thì tôi nghe tiếng cửa sổ mở ra ở phía trên. Tôi ngẩng lên và thấy Midori đang nghiêng người ra vẫy:
“Vào đi!” cô nói to. “Cứ nhấc cái cửa lên.”
“Ôkê chứ? Tớ đến hơi sớm!” tôi lớn tiếng đáp.
“Không sao. Lên gác nhé. Tớ đang bận trong bếp.”
Cô đóng cửa sổ lại.
Cái cửa cuốn kêu xào xạo ầm khi tôi nhấc nó lên chừng một thước, chui qua, rồi lại hạ nó xuống. Bên trong cửa hàng tối om. Tôi lần mò tìm đường vào tới chân cầu thang ở phía sau, vấp phải nhưng bó tạp chí lăn lóc dưới đất. Tôi cởi giày rồi theo cầu thang lên phòng khách. Nội thất ngôi nhà tối và ảm đạm. Cầu thang dẫn vào một phòng khách giản dị có một cái ghế sô-pha và mấy cái ghế bành. Đó là một gian phòng nhỏ có ánh sáng lờ mờ lọt vào từ cửa sổ, giống như trong những phim Ba Lan ngày xưa. Bên trái có vẻ là một chỗ chứa đồ và cái gì đó như cửa vào nhà tắm. Đoạn thang lên tầng trên nữa rất dốc và tôi phải thận trọng từng bước, nhưng lên đến nơi thì khung cảnh sáng sủa hơn nhiều đến nỗi tôi thấy nhẹ cả người.
“Tớ ở đây,” Midori gọi. Phía bên phải đầu cầu thang có vẻ là buồng ăn, ở sau đó là bếp. Ngôi nhà thì cũ, nhưng gian bếp có vẻ vừa mới được thay thế bộ tủ mới và bàn rửa vòi nước sáng choang. Midori đang nấu nướng. Một cái nồi đang sôi, và không khí sặc mùi cá nướng.
“Có bia trong tủ lạnh,” cô nói và liếc sang phía tôi. “Cậu ngồi đi để tớ làm nốt món này.” Tôi lấy một hộp bia và ngồi cạnh bàn bếp. Bia lạnh toát như thể nó đã ở trong tủ lạnh cả năm trời. Trên bàn có một cái gạt tàn nhỏ màu trắng, một tờ báo, và một vịt xì-dầu. Có cả một tập giấy ghi chú và bút viết, thấy có ghi một số điện thoại và mấy con số có vẻ là tính toán chợ búa gì đấy.
“Chắc phải mười phút nữa mới xong,” cô nói. “Cậu đợi được chứ.”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói.
“Vậy thì cứ để cho thật đói đi. Tớ làm nhiều đồ ăn đấy.”
Tôi nhâm nhi bia và dồn mắt vào Midori trong khi cô nấu nướng, quay lưng về phía tôi. Cô làm việc với những động tác nhanh nhẹn khéo léo, đến bốn năm thứ việc một lúc ở trên bếp. Vừa mới bắt đầu luộc cá ở đây, một giây sau đã thấy thái tanh tách ngoài thớt, rồi lấy cái gì đó trong tủ lạnh ra chất đầy vào một cái bát, sau đó nhoáng một cái đã rửa xong cái nồi vừa mới dùng. Từ sau lưng trông cô như một nghệ sĩ Ấn Độ điều khiển bộ gõ – nào rung chuông, nào đánh mõ, nào gõ sửng trâu, động tác nào cũng chính xác và tiết kiệm trong một tổng thể hài hoà. Tôi nhìn mà phát khiếp.
“Nếu tớ giúp được gì thì cậu cứ bảo nhé,” tôi nói, cũng là để khỏi ngượng là chính.
“Ôkê mà,” Midori nói và mỉm cười về phía tôi. “Tớ vẫn quen làm mọi thứ một mình.” Cô mặc quần bò chen màu nước biển và một chiếc áo phông xanh thuỷ quân. Hình lôgô của hãng đĩa hát Apple chiếm gần hết lưng áo. Cô có bộ hông cực kỳ hẹp, như thể đã bỏ qua tuổi phát dục và không chịu nảy nở, và điều đó làm cô trông lưỡng tính hơn các cô gái mặc quần bò chẽn bình thường khác. Ánh sáng tràn vào từ cửa sổ bếp bao bọc lấy thân hình cô với một đường viền mờ ảo.
“Nhẽ ra cậu không cần phải bày vẽ đại tiệc thế,” tôi nói.
“Tiệc tùng gì đâu,” Midori đáp mà không quay lại. “Hôm qua tớ bận quá không đi chợ hẳn hoi được. Tớ chỉ nhặt nhạnh những thứ có sẵn trong tủ lạnh thôi. Thật đấy, cậu đừng có lo. Với lại họ Kobayashi nhà tớ có truyền thống đãi khách. Tớ cũng không biết tại sao, nhưng nhà tớ thích thù tiếp bạn bè lắm. Thâm căn cố đế thế rồi, như một chứng bệnh vậy. Cũng chẳng phải tại nhà tớ đặc biệt tử tế hoặc tại mọi người quý mến gia đình tớ quá hay gì đó, nhưng cứ hễ có ai đến chơi là sẽ được hậu đãi, bất kì là thế nào. Cả nhà tớ đều có những khiếm khuyết tính cách giống nhau, tốt xấu gì cũng thế. Ví dụ như bố tớ. Ông ấy hầu như không uống rượu, nhưng trong nhà lúc nào cũng đầy rượu. Để làm gì ư? Để đãi khách! Cho nên đừng có nhịn, cậu cứ uống bia xả láng nhé.”
“Cám ơn,” tôi nói.
Tôi bỗng nhớ ra là đã để mấy bông thuỷ tiên ở dưới nhà. Tôi đã để chúng sang bên cạnh lúc cởi giày. Tôi lẳng lặng xuống thang và thấy mười bông hoa đang nở sáng rực trong bóng tối. Midori lấy một cái cốc thuỷ tinh cao trong chạn ra và cắm hoa vào đó.
“Tớ thích thuỷ tiên lắm,” Midori nói. Đã có lân tớ hát bài “Bảy đoá thuỷ tiên” trong một cuộc thi tài ở trường. Cậu biết bài đó không?”
“Có”
“Chúng tớ có một nhóm nhạc dân gian. Tớ chơi ghi-ta.”
Cô vừa dọn đồ ăn ra đĩa vừa hát bài “Bảy đoá thuỷ tiên.”
Midori nấu nướng giỏi hơn tôi tưởng rất nhiều: đủ các loại món rán, xào, luộc, nướng, muối rất ngon, chế biến từ trứng gà, cá thu, đậu quả tươi, cà tím, các loại nấm, củ cải đỏ, vừng, nấu theo phong cách Kyoto rất tinh tế.
“Ngon tuyệt,” tôi nói, miệng vẫn đầy thức ăn.
“Ôkê, bây giờ cậu nói thật đi!” Midori nói. “Cậu tưởng tớ không thể nấu nướng ngon lành thế này đúng không – và cứ nhìn tớ thì ai cũng nghĩ vậy, đúng không?”
“Quả có thế,” tôi thú thật.
“Cậu quê ở Kansai, nên thích ăn các món có hương vị tinh tế kiểu này, đúng không?”
“Chẳng nhẽ cậu đã chọn món và nấu nướng theo khẩu vị đặc biệt của tớ?”
“Đừng vớ vẩn? Tớ không chịu rắc rối thế đâu. Không đâu. Nhưng nhà tớ vẫn ăn uống kiểu này.”
“Vậy. mẹ cậu hoặc bố cậu, cũng là người Kansai à?”
“Không. Bố tớ đẻ ở Tokyo và mẹ tớ là người Fukushima. Họ hàng nhà tớ không có ai là người Kansai. Tất cả đều là người Tokyo hoặc Kanto bắc.”
“Tớ chịu đấy,” tôi nói. “Làm sao cậu có thể nấu nướng theo lối Kansai một trăm phần trăm thế này được. Có ai dạy cậu à?”
“À, đó là cả một câu chuyện đấy,” cô nói, miệng nhai một miếng trứng rán. “Mẹ tớ ghét đủ thứ việc nhà, và bà ấy hầu như không nấu nướng gì bao giờ. Và chúng tớ lúc nào cũng phải nghĩ, ví dụ như “Hôm nay bận quá, mình gọi đồ ăn về nhà đi”, hoặc “Mình ra hàng thịt mua ít chả cá mà ăn cho rồi”, đại loại thế. Ngay từ hồi bé tớ đã ghét thế rồi, kiểu cứ làm một nồi cà-ri to đùng và ăn ba ngày liền. Cho đến một hôm, đang năm thứ năm trung học, tớ quyết định sẽ phải ra tay nấu nướng cho cả nhà và phải nấu thật ngon. Tớ đến hiệu sách lớn Kinokuniya ở Shinjuku mua cuốn dạy nấu ăn to nhất và đẹp nhất, rồi tớ thông thạo sách ấy từ bìa trước đến bìa sau, từ chọn thớt mài dao cho đến cách lọc xương và đánh vẩy cá, đủ thứ. Tác giả cuốn sách ấy tình cờ lại là người Kansai, cho nên tất cả những món tớ biết nấu đều là theo lối Kansai.”
“Nghĩa là cậu đã học nấu tất cả những thứ này từ một cuốn sách ư?”
“Tớ để dành tiền để đi ăn của thật. Có thế mới học được hương vị. Cảm tính của tớ tốt. Nhưng đầu óc logic thì tớ tuyệt vọng.”
“Cậu tự học mà nấu giỏi thế này thì thực là kinh khủng!”
“Không dễ đâu,” Midori thở dài nói, “Lớn lên trong một cái nhà mà mọi người đều chẳng thèm để ý gì đến đồ ăn thức uống. Tớ nói tớ muốn mua dao với nồi tử tế nhưng chẳng ai cho tiền. Họ bảo “Những cái mình đang dùng là tốt chán rồi”. Nhưng tớ bảo họ điên à, dao dựa kiểu ấy có muốn lọc xương cá cũng không xong, thế là họ nói “Mày lọc xương cá làm cái quái gì cơ chứ?” Không thể nói phải quấy với họ được. Tớ bèn dành dụm tiên tiêu vặt và đi sắm dao nồi rổ rá chuyên nghiệp mang về dùng. Cậu có tin được không? Một con nhóc mười lăm tuổi tiết kiệm từng xu để mua rố rá đá mài và nồi chống dính trong khi lũ con gái khác ở trường đã nhiều tiền thì chớ lại tha hồ sắm quần áo giày dép để chưng diện. Cậu có thấy buồn cho tớ không hả?”
Tôi vừa gật đầu vừa nuốt đầy một ngụm súp đậu xanh nước trong veo.
“Đến lớp cuối ở trung học, tớ đã phải mua một cái chảo rán trứng – loại chảo dài hẹp để làm món trứng dashimaki mà mình đang ăn đây này. Tiền ấy đáng nhẽ tớ dùng để mua một cái xu-chiêng mới. Thế là ba tháng liền tớ chỉ có độc một cái xu-chiêng. Cậu có tin được không? Tớ giặt nó vào ban đêm, làm đủ cách cho nó khô để sáng hôm sau còn mặc. Khổ nhất trần đời là phải mặc xu-chiêng ẩm. Tớ đi đó đây mà nước mắt cứ trào ra. Cứ nghĩ đến mình đang phải khổ vì một cái chảo rán trứng!”
“Tớ hiểu,” tôi nói, phì cười.
“Tớ biết nhẽ ra không được nói thế này, nhưng quả thật tớ thấy như nhẹ cả người khi mẹ tớ chết. Tớ có thể quản lí chi tiêu theo cách của mình. Tớ có thể mua cái gì tớ thích. Bây giờ thì tớ đã có tương đối đầy đủ đồ làm bếp. Bố tớ không biết tí gì về chuyện tiền nong cả.”
“Mẹ cậu mất khi nào?”
“Được hai năm rồi. Ung thư. U não. Bà ấy nằm bệnh viện một năm rưỡi. Thật kinh khủng. Đau đớn suốt. Cuối cùng bà ấy mất trí; phải dùng thuốc an thần liên tục, mà mãi vẫn chưa chết được, nên khi mẹ tớ đi thì gần như là phải có tác động đề giúp cho bà ấy được chết. Chết kiểu ấy là đáng sợ nhất – bản thân thì đau đớn, gia đình thì khổ sở. Nhà có đồng nào là tiêu vào bệnh viện hết. Nguyên thuốc tiêm thôi cũng đã mỗi phát hai mươi ngàn Yên, mà tiêm liên miên, rồi lại tiền dịch vụ chăm sóc hai tư giờ một ngày. Tớ bận với bà ấy đến nỗi không thể học hành gì được, bị chậm đại học mất một năm. Mà thế đã phải hết đâu…” Cô dừng lại giữa câu, đặt đũa xuống và cười. “Nhưng sao tự nhiên mình lại nói nhưng chuyện thảm thế nhỉ?
“Nó bắt đầu từ chuyện cái xu-chiêng,” tôi nói.
“Thôi nhé, ăn món trứng đi và hay nghĩ đến những điều tớ vừa bảo với cậu,” Midori nói với vẻ nghiêm trang.
Ăn hết phần mình là tôi no kễnh, nhưng Midori ăn ít hơn nhiều. “Nấu rồi thì hết muốn ăn.” cô nói. Cô dọn bát đĩa, lau bàn, mang ra một bao Marlboro, rút một điếu và châm lửa bằng diêm. Hai tay ôm cái cốc cắm thuỷ tiên, cô chăm chú nhìn mấy bông hoa một lúc lâu.
“Có lẽ tớ sẽ không cắm chúng sang bình nữa,” cô nói. “Để chúng thế này thì có vẻ như tớ vừa tình cờ hái chúng ở một cái ao nào đó và cứ thế mà bỏ vào cái gì đầu tiên có trong tay.”
“Quả là tớ đã hái chúng ở một cái ao chỗ ga tàu Otsuka,” tôi nói.
Cô chặc lưỡi. “Cậu là một gã kì lạ. Nói đùa mà mặt cứ tỉnh khô.”
Tay đỡ cằm, cô hút đến nửa điếu thuốc thì dụi nó vào cái gạt tàn. Cô dụi mắt như thể vừa bị khói xộc vào.
“Con gái nhẽ ra phải duyên dáng hơn khi tắt thuốc lá. Cậu dụi thuốc như một ga thợ xẻ vậy. Cậu không nên dúi nó xuống ngay thế, mà phải nhẹ nhàng gạt quanh một tí đã. Như thế nó mới không cong gẫy thế kia. Với lại con gái không ai nhả khói ra đằng mũi như thế. Mà cũng chẳng bao giờ đi kể chuyện chỉ mặc một cái xu-chiêng liền trong ba tháng trong khi ngồi ăn một mình với đàn ông.”
“Thì tớ là thợ xẻ mà,” Midori nói, gãi gãi cạnh sống mũi. “Tớ không bao giờ có thể sành điệu được. Tớ đã đùa thử nhiều lần, nhưng không thể được. Còn chê trách gì nữa không?”
“Con gái không hút Marlboro,” tôi bảo.
“Khác quái gì? Thuốc nào thì cũng dở như nhau cả.” Cô xoay xoay cái bao Marlboro trong tay. “Tớ bắt đầu hút thuốc từ tháng trước. Chẳng phải thèm thuồng gì. Chỉ thinh thích thế thôi.”
“Sao lại thế?”
Cô ép chặt hai tay lên mặt bàn và nghĩ một lúc. “Mà có gì là khác nhau đâu? Cậu không hút thuốc?”
“Bỏ từ tháng Sáu” tôi nói.
“Sao thế?”
“Phiền lắm. Tớ ghét bị hết thuốc vào lúc nửa đêm. Tớ không thích bị cái gì bó buộc mình kiểu ấy.”
“Cậu biết rất rõ cái gì cậu thích và cái gì cậu không thích,” cô nói.
“Có lẽ thế,” tôi bảo. “Có lẽ vì thế mà mọi người không thích tớ. Chưa bao giờ.”
“Là vì cậu lộ liễu chuyện đó,” cô nói. “Cậu tỏ rõ thái độ cậu bất cần người ta có thích hay ghét cậu hay không. Cái đó chọc tức mọi người.” Cô nói gần như lẩm nhẩm, cằm tựa trong lòng bàn tay. “Nhưng tớ thích nói chuyện với cậu. Cách nói của cậu rất lạ. “Tớ không thích bị cái gì bó buộc mình kiểu ấy.”
Tôi giúp cô rửa bát. Đứng cạnh cô, tôi lau những cái cô đã rửa, rồi xếp chúng lên mặt bàn.
“Này,” tôi nói, “hôm nay nhà cậu mọi người đi vắng hết à?”
“Mẹ tớ ở dưới mộ. Bà ấy chết hai năm rồi.”
“Rồi, tớ đã nghe chuyện ấy.”
“Chị tớ đi chơi với chồng chưa cưới. Có lẽ lái xe đi đâu đó. Anh kia làm cho một hãng ôtô. Hắn thích xe lắm. Tớ không thích ôtô.”
Midori ngừng nói và rửa. Tôi ngừng nói và lau.
“Còn có bố tớ nữa,” cô nói sau một lúc im lặng.
“Phải rồi,” tôi bảo.
“Ông ấy đi Uruguay từ tháng Sáu năm ngoái và vẫn ở đó cho đến bây giờ.”
“Uruguay! Sao lại Uruguay?”
“Ông ấy đang tính ở hẳn đó, cậu có tin hay không thì tuỳ. Một chiến hữu từ thời lính tráng của ông ấy có cái nông trại ở đó. Đùng một cái, bố tớ tuyên bố là ông ấy cũng sẽ đi, rằng ở Uruguay khả năng của ông ấy sẽ không bị hạn chế, và ông ấy lên máy bay, thế thôi. Chúng tớ cố hết sức ngăn ông ấy, như “Sao bố lại muốn đến một chỗ như thế? Bố không biết tiếng, bố hầu như chưa bao giờ ra khỏi Tokyo.” Nhưng ông ấy không nghe. Mẹ tớ mất là một cú sốc thật sự với ông ấy. Nghĩa là chuyện đó làm ông thành ra lẩn thẩn. Bố tớ yêu mẹ tớ đến thế đấy. Thật thế.”
Tôi không biết nói gì, chỉ nhìn Midori chằm chằm, mồm há hốc.
“Cậu có biết ông ấy nói gì với chị em tớ lúc mẹ tớ mất không? “Tao thà mất hai đứa chúng mày còn hơn mất bà ấy.” Tớ xỉu hết cả người. Không thể nói được gì nữa. Cậu có hiểu không? Có ai lại nói ra một điều như thế chứ? Ôkê, ông ấy mất người đàn bà yêu dấu, người bạn đời của ông ấy. Tớ hiểu nỗi đau ấy, nỗi buồn ấy, sự đổ vỡ ấy. Tớ thương ông ấy. Nhưng không ai nói với con gái của chính mình rằng “Nhẽ ra mày nên chết thay cho mẹ mày” Nghĩa là, nó thật khủng khiếp. Cậu có đồng ý không nào?”
“Ờ tớ hiểu ý cậu rồi.”
“Cái vết thương ấy sẽ không bao giờ lành được,” cô vừa nói vừa lắc đầu. “Nhưng quả thực, nhà tớ ai cũng lạ. Người nào cũng có cái gì đó hơi là lạ.”
“Có vẻ thế thật,” tôi nói.
“Dù sao, thật tuyệt vời khi thấy có hai người yêu nhau, phải không cậu? Tớ muốn nói là một người đàn ông yêu vợ mình đến mức có thể bảo lũ con gái đáng nhẽ chúng phải chết thay cho mẹ.”
“Có thể tuyệt vời thật, nếu như cậu nhìn nhận theo kiểu ấy.”
“Và thế là ông ấy bỏ mặc hai đứa chúng tớ và trốn sang Uruguay.”
Tôi lau thêm một cái đĩa mà không nói năng gì. Sau cái cuối cùng, Midori xếp tất cả lại vào chạn.
“Thế cậu có tin tức gì của bố không?” tôi hỏi.
“Một cái bưu thiếp. Hồi tháng Ba. Nhưng ông ấy viết gì chứ? “Ở đây nóng lắm” hoặc “Hoa quả không ngon như bố tưởng”. Những chuyện như thế. Tớ muốn nói là, xin ông tạnh đi cho được việc! Một bức ảnh ngu xuẩn chụp một con lừa! Ông ấy điên hẳn rồi! Thậm chí ông ấy cũng chẳng báo tin đã gặp được lão kia chưa – cái ông chiến hữu hoặc gì gì ấy. Ông ấy cũng có thêm ở dòng cuối rằng khi nào ổn định ông ấy sẽ đón tớ với chị tớ sang, nhưng sau đấy thì bặt vô âm tín. Và ông ấy không bao giờ trả lời thư của bọn tớ..”
“Cậu sẽ làm gì nếu bố cậu bảo “Đến Uruguay với bố”?”
“Tớ sẽ đi và ngó nghiêng một tí. Biết đâu lại vui. Chị tớ thì lại bảo không đời nào. Chị tớ không chịu được những nơi bẩn thỉu.”
“Uruguay bẩn lắm à?”
“Ai biết đâu được! Chị ấy nghĩ thế. Kiểu như đường xá thì đầy phân lừa và ruồi nhặng, rồi chuồng xí thì hỏng, và cho nào cũng lổm ngổm những thằn lằn với bọ cạp. Có lẽ chị ấy xem thấy trên phim. Chị ấy không thể chịu được ruồi nhặng. Chị ấy chỉ thích phóng ôtô xịn qua những nơi có phong cảnh đẹp.”
“Lại thế nữa kia à?”
“Nói thật chứ, Uruguay thì đã sao? Tớ sẽ đi.”
“Vậy ai sẽ trông cửa hàng?”
“Chị tớ. Nhưng chị ấy ghét việc này lắm. Chúng tớ có một ông bác ở gần đây vẫn đến giúp và đi giao hàng. Tớ thì cứ rảnh là phụ một tay. Hiệu sách thì việc cũng không đến nỗi khổ sai lắm, nên bọn tớ có thể làm được. Còn nếu quá sức thì bọn tớ sẽ bán nó đi.”
“Cậu có thích bố cậu không?”
Midori lắc đầu. “Không thích lắm.”
“Vậy sao cậu lại có thể theo ông ấy sang Uruguay?”
“Tớ tin ông ấy.”
“Tin ông ấy?”
“Ừ, tớ không ưa ông ấy lắm, nhưng tớ tin ở bố tớ. Làm sao có thể không tin một người dám bỏ hết nhà cửa, con cái, công việc để chạy sang tận Uruguay chỉ vì choáng váng trước cái chết của vợ mình? Cậu có hiểu ý tớ không?”
Tôi thở dài. “Một tí thôi, nhưng cũng không hẳn.”
Midori cười váng lên và vỗ vỗ vào lưng tôi. “Thôi nào,” cô nói, “không sao đâu.”
Có hết chuyện lạ này đến chuyện lạ kia trong buổi chiều Chủ nhật ấy. Một trận hoả hoạn xảy ra gần nhà Midori, và khi leo lên sân phơi trên tầng ba để xem, chúng tôi đã gần như hôn nhau. Nói thế nghe thật ngu xuẩn, nhưng mà đúng như vạy.