Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Chu lưu thủy quốc kết phù sào,
Nhàn bả hàn châm đới nguyệt sao.
Cán lộng kim ba phi lộ hạ, (2)
Nhĩ huyền thiềm quật (3) giới phong phao.
Ngọc lân hữu hạnh thê điều khoái,
Quế tửu vi hoan tử chước bào.
Túy ngọa thương giang tầm vãng sự,
Nghiêm Lăng (4) tằng thị bố y giao.
Dịch nghĩa: Câu cá dưới trăng ở Nhà Bè
Khắp vùng sông nước này đều làm tổ nổi (nhà bè),
Nhân nhàn rỗi đem lưỡi câu lạnh câu cá dưới trăng.
Cần câu đùa sóng vàng gợn dưới sương móc,
Mồi treo cung thiềm thả theo gió.
May mà câu được cá ngon thì vợ đem làm gỏi,
Uống rượu quế làm vui có con nghiêng bầu rót.
Say nằm nơi dòng sông lạnh mà ôn lại việc đã qua,
Nghiêm Lăng xưa từng là bạn áo vải.
Chú thích
(1): Phù Gia: Nhà Bè, ở khoảng vàm ba con sông: sông Phước Long (Đồng Nai) ở hướng bắc chảy xuống và sông Tân Bình ở hướng nam chảy ra, hai sông hợp lại chảy xuống hướng đông thành sông Phước Bình.
Tương truyền xưa kia dân cư xa cách, nước sông mặn, ghe thuyền qua lại nơi này có khi phải chịu đói khát. Bấy giờ có ông Võ Thủ Hoằng, tục gọi là Thủ Huồng, phát tâm cứu thế, đục cột tre làm bè, rồi làm nhà lên trên, trong nhà sắm nồi bếp, than củi, thức ắn, nước uống đầy đủ để giúp người đi thuyền dùng.
Sau đó người đi buôn cùng kết bè nổi bán thực vật nhiều đến 20,30 cái; nhóm thành chợ trên sông nên gọi vùng này là Nhà Bè.
(2): Lộ khí là hơi móc, tạo thành sương. Phi lộ hạ tức là sương.
(3): Thiềm quật là cung trăng.
(4): Nghiêm Lăng: tức Nghiêm Quang, người thời Đông Hán.
Nguyễn Khuê dịch thơ
Nhà bè sông nước nổi mênh mang,
Câu cá đêm trăng hưởng thú nhàn.
Cần gác sóng vàng đùa dưới móc,
Mồi treo vành nguyệt thả theo làn.
Cá ngon thái gỏi may câu được,
Rượu quế làm vui cứ uống tràn.
Sông lạnh say nằm ôn chuyện cũ,
Nghiêm Lăng là bạn thuở bần hàn.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.