050 – Ngưu Tân ngư địch (1)

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Lậu (2) trích tiền lâu ngọc lộ đoàn,

Du dương ngư địch nhiễu vân đoan.

Phong xuy dương liễu Tam Giang (3) tĩnh,

Nguyệt bính mai hoa ngũ dạ hàn.

Điệu cấp hoạn tình tăng khảng khái,

Thanh thê lữ mộng kỷ bàn hoàn.

Tên ba đam đãng long ngâm yết,

Trường chiếm thu tiêu hạ điếu can.

Dịch nghĩa: Tiếng sáo chài ở Bến Nghé

Trên lầu, đồng hồ nhỏ giọt như hạt móc ngọc tròn,

Tiếng sáo chài lơ lửng nơi tầng mây.

Gió thổi dương liễu ở Tam Giang vắng lặng,

Trăng chiếu hoa mai suốt năm canh lạnh lẽo.

Điệu sáo thổi gấp khiến tình cảm kẻ làm quan thêm khảng khái,

Tiếng thê lương làm giấc mộng khách lữ thứ mấy lần bàn hoàn.

Khúc sáo chấm dứt trong cảnh khói sóng mênh mông nhạt nhòa,

Suốt đêm thu buông cần câu cá.

Chú thích

(1): Ngưu Tân là Bến Nghé, tên sông trước thành Gia Định, còn gọi là sông Tân Bình, tên chữ là Ngưu Tân hay Ngưu Chử, nay gọi là sông Sài Gòn.

(2): Lậu là giọt nước rỉ ra của đồng hồ thời xưa có khắc từng độ, giống như đồng hồ cát.

(3): Tam Giang là cửa Tam Giang, Nhà Bè. Sông Phước Long (Đồng Nai) từ hướng bắc chảy xuống và sông Tân Bình (Bến Nghé) ở hướng nam chảy ra; hai sông hợp lại thành sông Phước Bình chảy ra cửa biển Cần Giờ.

Hoài Anh dịch thơ

Giọt ngọc đồng hồ rỏ trước lầu,

Sáo chài dìu dặt luyến mây cao.

Gió đùa dương liễu, sông êm lặng,

Trăng chiếu hoa mai, đêm lạnh sao.

Điệu gấp tình ta thêm khảng khái,

Tiếng buồn mộng khách luống nao nao.

Nhạt màu khói sóng, rồng ngâm dứt,

Chiếm cả đêm thu, cần thả câu.

Nguyễn Khuê dịch thơ

Thánh thót đồng hồ nhỏ giọt châu,

Sáo chài lơ lửng tận mây cao.

Gió đùa dương liễu sông lờ lững,

Trăng chiếu hoa mai, bóng dãi dầu.

Khảng khái hoạn tình nghe điệu gấp,

Bàn hoàn lữ mộng lắng thanh sầu.

Nhạt nhòa khói sóng âm vời vợi,

Ròng rã đêm thu lặng thả câu.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!