045 – Cấn Trai đề bích

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Thiên địa chung nhân tú,

Nhân thừa thiên địa chân.

Tửu đa giới đãng tính,

Thi khổ cảnh lao thần.

Lý du cương duy (1) lập,

Danh thành đức nghiệp tân.

Đình hoa khai bất chiết,

Lưu thưởng tu nhiên xuân.

Dịch nghĩa: Cấn Trai đề lên vách

Trời đất chung đúc khí linh tú nên người,

Người thừa hưởng cái chân của trời đất.

Uống rượu nhiều, tự răn về tính phoáng đãng,

Khổ công làm thơ, cảnh giác về chuyện mệt mỏi tinh thần.

Lý đầy đủ, nguyên tắc để ràng buộc xã hội và quốc gia được lập,

Đã thành danh, đạo đức, sự nghiệp phải có cái mới.

Hoa trước sân nở không bẻ,

Dành để thưởng cái xuân tự nhiên.

Chú thích

(1): Cương duy là tam cương và tứ duy. Tam cương gồm ba mối: quân thần, phụ tử và phu phụ (vua tôi, cha con và vợ chồng). Tứ duy gồm bốn thứ đạo đức xưa để duy trì lòng người: lễ nghĩa, liêm, sỉ.

Hoài Anh dịch thơ

Khí linh tú đúc nên người,

Người thừa hưởng của đất trời cái chân.

Rượu nhiều, phóng đãng cần răn,

Mê thơ hao tổn tinh thần phải kiêng.

Lý đầy đủ, lập mối giềng,

Thành danh, đức nghiệp nên siêng trau dồi.

Hoa vườn nở, chớ bẻ hoài,

Dành để thưởng xuân đượm mùi thiên nhiên.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!