Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Hoa khai tằng phỏng Hạnh Hoa thôn,
Hoa tạ tương qua thượng yểm môn.
Trù trướng cộng thùy diên quất tẩu,
Bồi hồi không tự lộng đồng tôn.
Trúc giang (1) phất thự thanh xà tiếu,
Miết phố (2) đào sa hắc lãng phiên.
Chướng độc thả thâm nghi phản trạo,
Mẫu lao kịch tích toái thư hiên.
Dịch nghĩa: Lại đến thăm Nguyễn Ngân Sinh không gặp đề gửi lại
Hoa nở từng đến thôn Hạnh Hoa,
Hoa tàn lại đến còn đóng cửa.
Buồn rầu cùng ai ăn tiệc quít,
Bồi hồi một mình đùa nghịch cây ngô đồng.
Trúc giang tang tảng sáng, rắn xanh rít,
Bến ba ba đãi cát sóng đen cuộn lên.
Khí độc lam chướng rất nặng, nên sớm quay chèo về,
Mẹ vất vả dấu guốc giẫm nát hiên thư phòng.
Chú thích
(1): Chú thích của Trịnh Hoài Đức: Trúc giang: đất Man, sản sinh nhiều rắn, lúc đêm tối trời quang rít gió, cắn người chết lập tức.
(2): Chú thích của Trịnh Hoài Đức: Miết phố là cấm địa của Cao Miên có lính phòng thủ, thường thường lấy trứng ba ba để dâng tiến quốc vương, có vị “Đại chuyên xa”, tính rất hung ác.
Hoài Anh dịch thơ
Hoa nở, đến Hạnh Hoa thôn,
Hoa tàn lại đến cửa còn đóng im.
Cùng ai tiệc quít bên thềm,
Bồi hồi đùa nghịch cành vin ngô đồng.
Rắn xanh rít gió ven sông,
Bến lầm đãi cát cuộn dòng sóng đen.
Chốn lam chướng đừng lưu liên,
Mẹ chờ, guốc giẫm nát hiên thư phòng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.