040 – Điền gia thu vũ

Bản gốc chữ Nho (*)

Phiên âm

Hòa đạo ly ly thảo thu thu,

Điền gia tam ngũ khúc giang lưu.

Nhĩ sinh (1) thử hắc thanh thiên tế,

Vũ túc đài hoàng hoạt vị thu.

Phá khối (2) hàn thôi hùy bạn nhạn,

Triêm nê tĩnh tẩy lũng đầu ngưu.

Huề hồ nghĩ khánh phong niên trạch,

Thoa lạp nông phu phỏng tửu chu.

Dịch nghĩa: Mưa thu với người làm ruộng

Cỏ cây hiu hắt, đồng lúa bời bời,

Bên dải sông quanh co, có năm ba nhà làm ruộng.

Tiếng mưa nhè nhẹ, lúa nếp đen lại nảy mầm non,

Giọt mưa đầm đìa, lớp rêu vàng còn đương ướt mặt.

Nhạn nấp bờ ruộng, có mưa khối đất vỡ, bị rét bay lên,

Trâu nằm đầu ghềnh, gặp mưa bùn lấm trút, trơn tru như tắm.

Quảy bầu, muốn ăn mừng điềm được mùa,

Mấy bác làm ruộng đội nón khoác áo tơi tìm đến thuyền bán rượu.

Chú thích

(1): Nhĩ sinh: Thông thiên hiểu mục Chiêm nghiệm về ngũ vũ (5 ngày tý trong 4 mùa có mưa) có chép: Thu giáp tý nhật vũ, hòa sinh lưỡng nhĩ nghĩa là: ngày giáp tý mùa thu có mưa, lúa đẻ thêm hai tai (hai mầm hay hai nhánh).

(2): Phá khối: sách Bác vật chép: Hữu vũ, nhạn tại huề bạn phá khối phi nhi, nghĩa là chim nhạn nấp ở bờ ruộng, hễ có mưa, vỡ khối đất là bay lên.

Huỳnh Minh Đức dịch thơ

Cỏ cây hiu hắt, lúa đòng đòng,

Đây đó dăm nhà dọc bến sông.

Mưa nhẹ, lúa đen chừng nảy nhánh,

Mưa dầm, rong ướt, độ vàng đồng.

Nhạn nấp vỡ đê, tràn tung cánh,

Trâu nằm ghềnh ướt, ngập cánh đồng.

Được mùa ta quảy theo bầu rượu,

Áo nón rượu ghe mấy bác nông.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!