033 – Tống Lương Sán Triều quy Quảng Đông

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Tài hoan hội tửu thúc ly trường,

Tri thị du tung luyến cố hương.

Nhân phản Dương thành thu nhất diệp,

Tình khiên Ngưu Chử liễu thiên hàng.

Bút La (1) sơn tống vân trình viễn,

Cẩm Thạch (2) khê lưu nguyệt ảnh trường.

Mạc vị loạn bang hiềm tái vãng (3),

Nhu hoài kim phục ứng minh vương.

Dịch nghĩa: Tiễn Lương Sán Triều về Quảng Đông

Vừa mới họp mặt uống rượu vui mừng, bỗng lại nhấp chén biệt ly,

Biết là dấu chân người chơi xa luyến quê cũ.

Người về thành Quảng Châu thuyền một lá,

Tình vấn vít Bến Nghé liễu nghìn hàng.

Núi Bút La tiễn dặm mây xa, (1)

Khe Cẩm Thạch lưu bóng trăng vằng vặc. (2)

Đừng hiềm vì nước loạn không sang nữa, (3)

Nay lại có vua sáng, lòng thuận theo.

Chú thích

1): Theo chú thích của Trịnh Hoài Đức: núi Bút La ở biển thuộc Quảng Nam dinh. Phàm thuyền buôn ra biển sẽ coi núi này là cột mốc để quay trở về.

(2): Theo chú thích của Trịnh Hoài Đức: Khe Cẩm Thạch ở Quảng Đông.

(3): Ý từ câu của Khổng Tử nói: Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư (Nước nguy đừng vào, nước loạn đừng ở).

Hoài Anh dịch thơ

Mới vui họp mặt thoắt lên đường,

Biết kẻ chơi xa nhớ cố hương.

Người lại Dương thành thuyền một lá,

Tình vương Bến Nghé liễu ngàn hàng.

Bút La núi tiễn trùng mây thẳm,

Cẩm Thạch khe lưu bóng nguyệt trường.

Đừng ngại loạn bang không tới nữa,

Thỏa lòng nay có đấng minh vương.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!