024 – Thu nhật khách trung tác

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

Đào Chu quán trục Ngũ hồ du (1),

Giới đạm lương hồi bất giác thu.

Phong cổ Hồ quần (2) nghinh thủy khởi (3),

Kê ngân (4) Đường cổ (5) hoán lang đầu.

Tương vu tùng cúc (6) không lai nguyệt,

Chính mỹ thuần lô (7) thượng hệ chu.

Hư phụ gia trang trùng cửu ước,

Miên hoa cuồng nhứ loạn liêu sầu (8).

Dịch nghĩa: Mùa thu đất khách cảm tác

Thuyền của Đào Chu quen chơi nơi cảnh Ngũ hồ,

Chiếu trúc đêm nằm thấy lạnh, chẳng để ý gì là trời đã sang thu.

Vào hội rước nước, dân bản xứ người Miên đánh trống hình con ong,

Tung vốn mua cau, khách hàng buôn Trung Quốc dốc trọn số bạc con gà.

Gốc tùng khóm cúc, vườn cũ bỏ hầu hoang, mảnh trăng kia tuy có sáng soi, nhưng ai ở nhà mà ngắm cảnh đẹp.

Gỏi cá canh rau, món ăn ngon vẫn sẵn, con thuyền nọ nay còn buột chặt, vậy ai về nhà mà hưởng thú thôn quê?

Mồng chín tháng chín, lỡ hẹn lên núi cao đi chơi với anh em,

Ở đây chỉ thấy cảnh bông hoa gạo bay tứ tung làm gợi thêm mối sầu của du khách.

Chú thích

(1): Phạm Lãi người đời Xuân thu (Trung Quốc ngày nay), sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn diệt Ngô xong, không làm quan mà đi chu du ở Ngũ hồ, xưng là Đào Chu công.

(2): Hồ quần: bầy người Hồ. Tác giả gọi quen theo lối khinh miệt các dân tộc khác của người Hán xưa.

(3): Hội “Rưới nước” của người Chân Lạp xưa.

(4): Kê ngân: bạc hình con gà. Theo tục nước Chân Lạp, trong giao dịch dùng thứ bạc nhỏ, có đúc hình con gà và có in bóng mờ của quốc vương làm dấu hiệu. Điểm đặc biệt là không phân biệt bạc trong tiền không tính, đôi khi giả pha đến bảy tám phần là đồng cũng được lưu hành. Vì thế các nhà buôn của ngoại quốc khi về nước, một đồng cũng không mang theo. Ấy cũng là một phương pháp lý tài của nước Cao Miên.

(5): Đường cổ ý: chỉ khách buôn người Trung Quốc.

(6): Tùng cúc: cây tùng cây cúc, chỉ cảnh vườn cũ ở quê nhà.

(7): Thuần lô: canh rau thuần (rau nhút), gỏi cá lô (cá chép).

(8): Bài thơ này được sáng tác lúc tác giả đi tránh loạn ở Cao Miên.

Hoài Anh dịch thơ

Đào Chu quen dạo Ngũ hồ,

Chiếu đêm nằm lạnh, bất ngờ thu sang.

Hội rước nước, trống ong vang,

Khách buôn xỉa bạc mua hàng cau tươi.

Cúc tùng vườn cũ trăng soi,

Thú quê gợi đó, thuyền người buộc dây.

Hẹn Trùng dương đã lỡ ngày,

Điên cuồng hoa gạo tung bay gợi sầu.

Huỳnh Minh Đức dịch thơ

Đào Chu quen thói Ngũ hồ du,

Chiếu lạnh đêm nằm chẳng ngỡ thu.

Chin trống dân Hồ mê đón nước,

Trút tiền chú Khách đón mua cau.

Cúc tùng hoang dại, trăng suông bóng,

Thuyền buộc lòng ai nhớ cá rau.

Trùng cửu hẹn rồi, lên dạo núi,

Hoa bay tản mạn, khiến ai sầu.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!