Vua Trần Thái Tông tự phụ thủy quân của mình tinh nhuệ, sẵn việc tuần biên thì đi cả sang đất Tống.
1. Tình hình đất nước sau cuộc đổi ngôi nhà Lý – nhà Trần
Dưới sự cai trị của vương triều Lý, nước Đại Việt đã có hơn hai trăm năm phát triển mạnh mẽ và ổn định về mọi mặt. Thế nhưng không nằm ngoài quy luật thịnh suy của các triều đại phong kiến, triều Lý xuống dốc thảm hại trong thời kỳ trị vì của các ông vua nhỏ tuổi, kém năng lực. Dưới thời vua Lý Cao Tông, chính sự thối nát, đất nước loạn lạc. Nhà Trần nổi lên từ đất Tức Mặc, nhờ công cứu giá vua Lý Huệ Tông và đánh dẹp nội loạn mà dần trở thành thế lực cát cứ hùng mạnh. Thế lực họ Trần nắm vua trong tay, cùng thế lực của Đoàn Thượng ở Hồng Châu, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang tạo thành thế chân vạc. Quyền bính họ Trần ban đầu nằm trong tay Thái úy Trần Tự Khánh. Sau khi Trần Tự Khánh mất, em họ ông là Trần Thủ Độ giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ nằm hết chính sự.
Vua Lý Huệ Tông nhu nhược, lại mắc bệnh điên và không có con trai. Ông đã truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh mới lên 6 tuổi, sử gọi là vua Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ nhân việc này mà thu xếp cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, sau đó sắp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Năm 1225, Trần Cảnh được vợ nhường ngôi khi mới 7 tuổi, tức là vua Trần Thái Tông (Trần Thừa là cha đẻ vua được tôn làm Thượng hoàng, sau khi mất truy tôn là Trần Thái Tổ). Cuộc đổi ngôi từ họ Lý sang họ Trần được coi là êm thấm hiếm có trong lịch sử Việt Nam.
Bằng nhiều biện pháp từ nhẹ nhàng đến thô bạo, Trần Thủ Độ đã một tay lèo lái giữ vững cơ nghiệp ban đầu của Trần triều. Ông đã bức tử vua Lý Huệ Tông để trừ hậu họa. Nhân dịp tôn thất họ Lý tập trung bái tế tổ tiên, Trần Thủ Độ cho đào hố đặt bẫy chôn sống hàng loạt tôn thất triều Lý có ý chí phản kháng. Họ Lý trong cả nước bị bắt đổi thành họ Nguyễn với lý do kỵ húy Trần Lý, vốn là tổ tiên họ Trần. Chế độ hôn nhân trong nội bộ hoàng thất nhà Trần được Trần Thủ Độ đề ra nhằm tránh đi vết xe đổ mất ngôi về tay ngoại thích của họ Lý. Lý Chiêu Hoàng từ ngôi vị hoàng đế sau khi nhường ngôi cho chồng thì được phong làm Chiêu Thánh hoàng hậu, sau lại bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. Tất cả những điều đó đều là kịch bản của Trần Thủ Độ cả.
Đối với thế lực cát cứ bên ngoài, vương triều mới tổ chức đánh dẹp những thế lực nhỏ yếu, hòa hoãn, phong tước cho hai thế lực cát cứ mạnh là Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Năm 1228, Nguyễn Nộn đánh giết được Đoàn Thượng, thu phục một phần lực lượng Hồng Châu, thế lực càng mạnh. Trần Thủ Độ một mặt điều quân phòng giữ nơi trọng yếu, mặt khác xin vua gởi thiệp chúc mừng đến Nguyễn Nộn, gia phong tước Hoàng Đạo Hiếu Vũ Vương, gả công chúa Ngọa Thiềm cho Nguyễn Nộn để kết thân và do thám. Nguyễn Nộn cũng chấp nhận thuần phục triều đình. Chẳng lâu sau đó, năm 1229 Nguyễn Nộn chết vì bệnh tật, lực lượng tan rã nhanh chóng. Bất giờ đất nước mới thực sự quy về một mối. Từ đây, Đại Việt dưới triều đại nhà Trần tiếp tục đà phát triển vững mạnh mà vương triều Lý đã gây dựng.
2. Sức mạnh của Đại Việt, tiền đề cho công cuộc chống ngoại xâm
Triều đình tập trung vào việc đắp đê trị thủy, phát triển nông nghiệp. Các ngành nghề khác cũng có điều kiện phát triển dưới sự thái bình mà triều đại mới mang lại. Tam giáo Nho, Phật, Lão đều phát triển mạnh, bổ trợ cho nhau trong việc định hình một hệ tư tưởng chung cho xã hội. Bình dân đa phần sùng đạo Phật, trong nước nhiều người cạo đầu, nếp sống vì thế mà an phận, thích hòa bình. Giới quan lại, quý tộc thì ngoài đạo Phật còn chăm trao dồi đạo Nho. Nho giáo tốt cho việc khiếu học và giúp giữ vững luân lý của một nhà nước quân chủ. Bên cạnh việc tổ chức đất nước theo phép tắc cũ từ thời nhà Lý, Đại Việt thời Trần có đặc trưng là hình thành một tầng lớp quan liêu quý tộc họ Trần đông đảo. Những vương hầu họ Trần được phân phong các thái ấp.
Mỗi thái ấp là một lãnh địa phong kiến có một số quyền tự trị nhất định như thu tô, tuyển mộ gia thuộc và thân binh. Khi không có việc cần, các quý tộc ở trong thái ấp của mình, khi cần thì vua sẽ triệu họ vào triều. Quan hệ giữa vua với các quan lại cao cấp ngoài nghĩa vua tôi còn có tình cảm thân tộc, gia đình. Vì vậy mà trong triều chính sự dễ dàng thông suốt do có nhiều sự tin cậy lẫn nhau. Ví như Trần Thủ Độ chuyên quyền, uy thế lớn hơn cả vua nhưng vua Trần vẫn hoàn toàn tin tưởng vì là chỗ tình thâm. Thủ Độ cũng hết lòng mà phò tá vua.
Nhà Trần chú ý phát triển nhiều lĩnh vực, trong đó có quân sự là lĩnh vực tối quan trọng để bảo vệ đất nước. Quân đội Đại Việt thời này bao gồm cấm quân, sương quân, lộ quân và thân quân của các vương hầu. Cấm quân có quân số chừng 2-3 vạn đóng ở kinh đô là lực lượng nòng cốt tinh nhuệ nhất đất nước, tuyển chọn từ những binh sĩ giỏi nhất trong toàn quân đội, được thích chữ Thiên Tử Binh trên trán, xăm hình rồng cùng hoa văn trên người. Cấm quân đặt dưới sự chỉ huy của Điện tiền chỉ huy sứ. Sương quân là quân được tuyển từ những trai tráng khỏe mạnh trong nước để đóng giữ ở những vùng phụ cận kinh đô. Sương quân hoạt động theo chế độ luân phiên. Khi đến phiên, quân lính sẽ nhập ngũ để huấn luyện và chiến đấu. Hết phiên thì quân lính về nhà làm ruộng, cứ thế thay nhau tại ngũ. Lộ quân cũng như sương quân nhưng là quân đóng ở các lộ phủ, giữ vai trò phòng thủ tại địa phương và được điều động phối hợp với cấm quân, sương quân khi có chiến tranh lớn. Các quan lại địa phương có quyền tự tuyển mộ lộ quân dưới sự giám sát của triều đình trung ương. Các vương hầu cũng được tuyển thân binh để dùng khi có việc cần. Nhờ chính sách tuyển mộ quân lính linh hoạt và tiếp nối chính sách Ngụ Binh Ư Nông, triều Trần không tốn quá nhiều nguồn lực nuôi quân nhưng luôn có được số quân đông đảo khi cần thiết. Tổng quân số Đại Việt đầu thời Trần trong điều kiện hòa bình có khoảng 10 vạn quân, thay phiên nhau về làm ruộng (trừ cấm quân). Tổng số dân Đại Việt thời này chừng 6 – 7 triệu người. Khi có chiến tranh, quân số sẽ tăng lên nhiều để đủ sức đương đầu với kẻ thù.
Triều đình rất chú trọng giảng day binh pháp và võ nghệ cho các tướng sĩ. Giảng Võ Đường là một trường quân sự cao cấp được thành lập để đào tạo, trao dồi kỹ năng cho các tướng lĩnh. Nhà Trần xây dựng quân đội theo phương châm “Qúy hồ tinh, bất quý hồ đa” (cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều). Quân lính được huấn luyện để tinh thông cả binh pháp lẫn võ nghệ, được trang bị tốt. Thời kỳ này quân chủng mạnh nhất của Đại Việt là thủy binh với nhiều loại thuyền tối tân. Kỵ binh, bộ binh, tượng binh cũng là những lực lượng mạnh.
Từ quý tộc đến bình dân, nô tì ai ai cũng có tinh thần thượng võ. Con trai nhà quý tộc đều được đào tạo võ nghệ, sử dụng các loại binh khí, luyện tập cỡi ngựa, bắn cung. Nô tì trong các thái ấp cũng được huấn luyện võ nghệ. Môn thể thao được yêu bậc nhất thời này là môn đô vật. Những ngày lễ hội thường tổ chức đấu vật cho các trai tráng thi thố. Ngoài ra, còn một môn “thể thao” được giới vương tôn ưa chuộng khác là gây sự đánh nhau bằng tay không và một mình đi “ăn cướp” (cướp của là việc phụ, chủ yếu là đánh nhau tranh hơn). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép : “Bấy giờ các vương hầu phần nhiều coi việc đánh nhau bằng tay không và một mình đi cướp là dũng cảm”.
Trong thời vua Trần Thái Tông trước khi quân Mông Cổ xâm phạm thì đất nước tương đối thái bình. Lần động binh lớn nhất trước kháng Mông Cổ chính là lần thân chinh của vua Trần Thái Tông đánh Chiêm Thành năm 1252 để răn đe việc vua Chiêm Thành đòi đất cũ mà Chiêm Thành đã dâng cho Đại Việt từ thời Lý. Lần này Đại Việt toàn thắng, bắt được vợ và nhiều thê thiếp của vua Chiêm Thành, cùng nhiều dân Chiêm rồi rút quân. Ngoài chiến sự Việt Chiêm, lần động binh khác tuy nhỏ hơn nhưng cũng rất đáng quan tâm là việc tuần biên phía bắc của vua Trần Thái Tông năm 1247. Vua Trần Thái Tông tự phụ thủy quân của mình tinh nhuệ, sẵn việc tuần biên thì đi cả sang đất Tống. Vua xưng là Trai Lang, cho chiến thuyền đi dọc khắp trại Vĩnh Bình thuộc Ung Châu, rồi đi sang cả Khâm Châu và Liêm Châu nước Tống mà neo thuyền. Dân Tống không hiểu quan quân từ đâu ra, sợ hãi bồng bế nhau mà chạy tán loạn cả một vùng. Sau đó người Tống biết được là quân Đại Việt, bèn dùng xích sắt chặn sông ngăn đường về nước. Vua Trần Thái Tông vẫn ung dung rút quân về, nhân tiện còn sai quân nhổ neo sắt mà đem về nước dùng. Cuộc đi tuần lấn biên này là chứng tỏ sự hùng mạnh cuả quân Đại Việt với người Tống.
Chỉ với quãng thời gian chừng hơn hai mươi năm ổn định và phát triển đất nước sau nội chiến và cuộc đổi ngôi Lý – Trần, nước Đại Việt lại vươn lên mạnh mẽ. Bấy giờ đất nước thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp. Quân đội Đại Việt thời Trần Thái Tông tỏ ra vượt trội hơn hẳn các nước lân bang, dân chúng thì yêu nước và tin tưởng vào triều đình mới. Đó là những tiền đề quan trọng để đất nước bước qua những thử thách ngặt nghèo phía trước.