Binh chế

Tác giả: Lê Nguyễn

Nguồn: trích trong sách “Thành cổ Sài Gòn và mấy vấn đề về triều Nguyễn”, Nhà xuất bản Trẻ -1998


Lịch sử loài người là một chuỗi dài những năm tháng tương tranh và quân quân đội hầu như hình thành đồng thời với sự hình thành cơ cấu quốc gia. Ở nước ta, trải qua mấy nghìn năm, binh chế có nhiều biến đổi để phù hợp với tình thế của mỗi thời kỳ.


Quân đội qua các triều đại

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngay từ thời kỳ đầu lập quốc, nhân dân ta đã phải đối phó với những cuộc ngoại xâm: Phù Đổng Thiên Vương phá giặ Ân, Hai Bà Trưng đánh tan quân Hán,… Điều đó chứng tỏ quân đội ta đã có mặt từ lúc hình thành cơ cấu xã hội đầu tiên. Thời kỳ này còn đậm nét truyền thuyết nên không thể biết được tổ chức quân đội ra sao.

Phải đợi đến sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, khi nhà Ngô giành lại chủ quyền và nhà Đinh thống nhất đất nước, sử sách mới ghi rõ tổ chức của quân đội nước ta. Đơn vị quân lớn nhất thời Đinh Tiên Hoàng là đạo, mỗi đạo có 10 quân, mỗi quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10  tốt, mỗi tốt có 10 ngũ và mỗi ngũ có 10 người (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Người tổng chỉ huy quân đội thời đó là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, sau trở thành vua Lê Đại Hành.

Sau khi đánh tan quân Minh, giữ yên bờ cõi, trong số 25 vạn quân, Bình Định Vương Lê Lợi cho 15 vạn về làm ruộng, giữ lại 10 vạn quân chia ra làm 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây đạo.


Thời Lê Trịnh, ở Đàng Ngoài, chúc Trịnh đặt ra thứ quân: Ưu binh ở kinh thành, canh giữ đền vua phủ chúa và Nhất binh ở các trấn, phục dịch các quan. Nhất binh chia thành nhiều cơ, mỗi cơ 200 người thì 100 người ở tại ngũ, 100 người về làm ruộng, lần lượt thay nhau như thế.

Còn ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn có khoảng 30.000 quân chia thành 5 cơ: Trung cơ, tả cơ, Hữu cơ, Tiền cô và Hậu cơ. Quân số này có lẽ được nâng lên vào thời điểm từ năm 1627 đến năm 1661, khi hai chúa Trịnh – Nguyễn mang quân đánh nhau đến 7 lần.


Đến khi chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhà Tây Sơn và lên ngôi với niên hiệu Gia Long, tổ chức quân sự được cải tiến để đảm bảo sự ổn định chính trị. Tại kinh thành có tổ chức Kinh binh gồm ba thứ quân: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh; chia thành doanh, vệ, đội, ngũ. Một doanh có 5 vệ, một vệ có 10 đội, một đội có 10 ngũ, một ngũ có 5 người.

Phục dịch nhà vua có các đội Cẩm y, Kim ngô, Loan giá, Thị vệ, ..; còn bảo vệ kinh thành có Thần cơ, Tiên phong, Long võ, Hổ oai, Hùng nhuệ, …

Tại các trấn (về sau là các tỉnh) có Cơ binh; chia thành cơ và đội. Ngoài Bộ binh, triều Nguyễn còn tổ chức chặt chẽ hệ thống Thủy binh, Tượng binh, Kỵ binh, Pháo thủ binh,..

Theo J.B. Chaigneau, một người Pháp làm quan triều Gia Long với tên Việt là Nguyễn Văn Thắng, quân đội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX vào khoảng từ 80.000 đến 200.000 người, tùy tình hình mà huy động nhiều hay ít. Riêng Thủy quân có 26.800 người với khoảng 1.000 tàu thuyền lớn nhỏ.


Các nguyên tắc tổ chức quân đội

Việc tổ chức quân đội thời xưa dựa vào nguyên tắc cơ bản là ‘Động vi binh, tĩnh vi dân” hay “Ngụ binh ư nông”. Khi có biến, mọi người đều ra trận; khi thái bình, phần lớn trở về làm ruộng, chỉ giữ lại một phần để canh gác, bảo vệ trị an và phục dịch vua quan.

Năm 1728, chúa Trịnh Cương đặt ra phép mộ lính: phàm người nào thân thể khỏe mạnh, tình nguyện làm lính thì nộp đơn xét duyệt để sung vào đội ngũ và được cấp cho quan tiền để sinh sống.

Đến năm 1733, chúa Trịnh Giang thấy nhiều người tình nguyện quá, phải tốn nhiều ruộng đất để cấp, thuế tô sút kém nên bỏ hẳn lệ này.

Triều Gia Long định ra phép giản binh, lấy lính trong số dân binh với tỷ lệ thay đổi tùy theo vùng, chẳng hạn ở Trung kỳ cứ 3 đinh lấy 1 lính; ở Bắc kỳ 7 đinh lấy 1 lính; còn ở Nam kỳ thì 5 đinh lấy 1 lính. Lại ban lệ biền binh, lính chia làm 3 phiên, 2 phiên về quê quán làm ăn, một phiên ở lại ban và luân phiên thay đổi nhau.


Về trang phục, đời Đinh đã định cách ăn mặc đồng nhất, ai cũng có áo giáp, mũ bình đính để phân biệt với dân thường. Đến thời Nguyễn, mỗi binh lính được cấp hàng năm 2 bộ quần áo gồm áo đen lót màu vàng, quần lụa tinh màu đỏ cùng thắt lưng, đẫy bằng vải …

Trang phục Võ quan triều Nguyễn: Tả quân (Chánh nhất phẩm) Trang phục Võ quan triều Nguyễn: Chưởng vệ (Tòng nhị phẩm)

 

Trang phục Võ quan triều Nguyễn: Quản cơ (Chánh tứ phẩm) Trang phục Võ quan triều Nguyễn: Phó suất đội (Chánh lục phẩm)

Lương bổng gồm có gạo và tiền. Ngay đầu thế kỷ XIX, triều đình qui định các làng xã phải gánh vác chi phí về trang phục cho binh lính trong địa hạt của họ.


Thông thường có hai tệ nạn xảy ra trong việc binh. Một là nhờ người đi lính thay, hai là đào ngũ.

Năm 1728, chúa Trịnh định rõ biện pháp tróc nã những ai mướn người đi lính thay. Người mướn thay, người đi thay đều bị xử tội đồ (bị đày đi lính phương xa để làm những việc hạ tiện: chăn voi, chăn ngựa,…), xã trưởng cùng quan sở ại dung túng việc đi lính thay cũng bị tội.

Năm 1859, khi cuộc chiến với Pháp bùng nổ, vua Tự Đức ban chỉ dụ đối phó với tình trạng đào ngũ ngày càng nhiều, với ba biện pháp trừng trị:

  • Đào ngũ lần thứ nhất: xuyên cây qua vành tai
  • Đào ngũ lần thứ nhì: đánh 100 gậy
  • Đào ngũ lần thứ ba: chém đầu

Trong lĩnh vực võ trang, ngoài các binh khí thời cổ như gươm, đao, giáo, mác, cung tên … đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn cho lập sở đúc súng đại bác, mở trường bắn. Tuy vậy, đến thời Tự Đức, trang bị vũ khí của quân lính vẫn còn rất lạc hậu: một đội người chỉ có 5 khẩu súng điểu thương, mỗi lần bắn phải châm ngòi. Cả năm lính mới tập bắn một lần, mỗi người chỉ được bắn 6 phát, ai bắn quá số đó phải bồi thường.

Vì tình trạng ấy mà năm 1861, trên 30.000 quân của Tổng thống quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương ở đồn Chí Hòa phải thất thủ trước 3.000 quan Pháp, với súng ống hiện đại hơn nhiều.

Trang phục triều Nguyễn: Lính bản xứ thời Pháp thuộc


 Võ quan ngày xưa

Do sự hạn chế của sử liệu thời trước, người ta chỉ biết một cách đơn giản là chức quan võ đời Hùng Vương là Lạc tướng. Đến thời Đinh – Lê, tổ chức quân đội đã có qui củ nhưng cũng chỉ thấy có Thập đạo tướng quân, chức quan võ cao cấp nhất của triều đình, không rõ những người trông coi các quân, lữ, tốt, ngũ … gọi là gì.

Đời Hậu Lê, tổ chức quân sự cao cấp nhất là Ngũ Phủ: Trung quân, Đông quân, Tây quân, Nam quân, Bắc quân. Mỗi phủ đặt một đô đốc phủ có tả hữu đô đốc trông coi, ..

Về sau, năm 1664, chúa Trịnh Tạc đặt thêm hai chức quan võ cao cấp nữa là Chưởng phủ sự. Một điểm đặc biệt trong thời Lê – Tri5ng là giới nội giám rất được tin dùng nên trong triều, ngoài văn ban, võ ban còn có giám ban, mãi đến 1870 mới bỏ ban này.


Đến triều Nguyễn, qua chế được vua Gia Long đặt định và vua Minh Mạng hoàn chỉnh với hai hệ  thống văn quan và võ quan cùng có 9 phẩm cấp (cửu phẩm), mỗi phẩm cấp có hai bậc chánh và tòng.

Chánh nhất phẩm bên văn quan có tứ trụ triều đình (Cần Chính điện đại học sĩ, văn Minh điện đại học sĩ, Võ hiển điện đại học sĩ và Đông Các điện đại học sĩ); còn bên võ quan có Ngũ quân Đô Thống phủ, Đô Thống chưởng phủ sự gồm: Trung quân (Đặng Đức Siêu), Tả quân (Lê Văn Duyệt), Hữu quân (Nguyễn Huỳnh Đức), Tiền quân (Nguyễn Văn Thành) và Hậu quân (Võ Tánh – đời Gia Long).

Ở kinh đô, quan Đô Thống (Tòng nhất phẩm) trông coi hết các doanh. Đứng đầu mỗi doanh là một Chưởng vệ (Tòng nhị phẩm), mỗi vệ là một Vệ úy (Chánh tam phẩm), mỗi đội là một Chánh đội tưởng suất đội.

Ở các tỉnh, viên võ quan cao nhất là Lãnh binh (Chánh tam phẩm), đôi khi các tỉnh lớn lại đặt chức Đề đốc (Chánh nhị phẩm). Trông coi các cơ là Quản cơ (Chánh tam phẩm), các đội là Suất đội (Tòng ngũ phẩm).


Trên phương diện hệ cấp, tuy có sự sắp xếp các phẩm cấp ngang hàng giữa văn quan và võ quan, nhưng thành kiến trọng văn khinh võ đã ăn sâu vào đầu óc người xưa.

Trong dân gian thường truyền tụng các câu:

Văn thì cửu phẩm là sang,

Võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu.

Hay:

Quan văn mất một đồng tiền,

Làm cho quan võ mất quyền Quận công.

Thành kiến này cũng có cơ sở của nó vì văn quan thường là những người có học vấn, đỗ đạt cao trong các kỳ thi. Để được giữ chức Tri huyện vào hàng chánh lục phẩm thôi đã phải đỗ từ cử nhân trở lên. Còn quan võ, chức Vệ úy chánh tam tam phẩm cũng chỉ chọn trong những người có sức mạnh, giỏi võ, những người này chẳng có mấy “chữ thánh hiền” trong bụng.

Các triều đại phong kiến cũng đã nghĩ đến việc mở trường dạy võ, như thời Lê Dụ Tông (1706-1729), chúa Trịnh Cương mở trường học võ, đặt quan giáo thụ để dạy, mỗi tháng tiểu tập một lần, 3 tháng đại tập một lần.

Đến triều Nguyễn, năm 1846, vua Thiệu Trị mở trường dạy võ tại kinh thành và năm 1865, vua Tự Đức cho mở kỳ thi võ tiến sĩ đầu tiên. Từ đó về sau, các khoa thi võ thường mở song hành với khoa thi văn, nhưng với qui mô hạn chế hơn. Các bài thi võ gồm đủ thập bát ban võ nghệ, thí sinh thí võ kỳ thi Hội phải sử dụng thành thạo 18 món binh khí, đấu quyền, đấu roi, đấu côn, … Chẳng những thế, thí sinh còn phải dự kỳ đối sách, bình luận về những đề tài Tôn Ngô binh pháp, Binh gia yếu lược,… Những người đỗ kỳ thi võ tiến sĩ được gọi là Tạo sĩ.

Đề đốc Lê Trực là một trong những người đỗ võ tiến sĩ đầu tiên trong thời kỳ này. Sau năm 1885, ông là một lãnh tụ kháng chiến nổi bật của phong trào Cần Vương, rất được tướng sĩ yêu thương và thực dân Pháp nể trọng.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!