NƠI PHẬT TỰ THUYỀN QUYÊN TÁ TÚC,
CHỐN THẠCH ĐẦU HÒA THƯỢNG VONG THÂN.
Lúc bấy giờ công chúa bị Nguyễn Danh Tập đánh một trận rất hung, quân sĩ đều tản lạc chạy hết chỉ còn hai thể nữ HUỳnh Anh với Bạch Yến chạy theo mà thôi, công chúa bèn dắt nhau giục ngựa chạy quanh lộn trong đường rừng, đặng kiếm nơi mà tị nạn, nỗng gò cao thấp, rừng bụi gay go, hai bên đường thì gai gốc phủ vây, nhành cây cản trở, dường như nó thấy một viên nữ tướng, đã cùng đồ thất trận, sức yếu thế cô, thì rủ nhau xúm lại mà chận đường bít ngõ.
Công chúa tuôn bờ lướt bụi, chạy đặng một hồi, ngó lại thì một vừng thái dương đã lần lần lặng chen cưới núi, lúc bấy giờ cả thảy cây cỏ đều lờ mờ, mà đường đi lại thêm bịt lối, công chúa với hai thể nữ ngừng ngựa, trông xem bốn phía đều rừng bụi quạnh hiu, chỉ nghe những tiếng dế gáy re re, sành kêu tích tích, kìa là cây nhen lửa đốm, nhấp nháng bên rừng, nọ là tiếng vượn ru con, nỉ non trên nhánh, thật là một cảnh ngộ rất thảm khổ rất gian truân, dẫu cho một người dạ sắt gan đồng thế nào, mà gặp lối cùng đồ như vầy, thì cũng phải hồn tiêu phách lạc.
Nhưng mà công chúa vẫn là một gái đã có sẵn tinh thần nghị lực, cang đởm phi thường, đối với một cảnh ngộ nguy hiểm gian nan như vầy, mà chẳng chút chi gọi là nao lòng rủn chí, chạy một hồi bụng đã đói cơm, miệng thèm khát nước, công chúa liền thò tay vào áo, lấy ra ít trái ô mai, đưa cho hai thể nữ mỗi người một trái và nói rằng:
– Hai ngươi hãy ngậm lấy trái nầy cho đỡ khát.
Nói rồi công chúa cũng lấy một trái bỏ vào miệng, chấp chấp và cười mà nói cách hòa hưỡn rằng:
– Lúc đi đường rừng bụi, trái ô mai nầy là một hớp nước thanh tuyền, để mà giải cho người hành khách trong cơn khao khát.
Thể nữ Huỳnh Anh bước lại một bên công chúa và nói:
– Bẩm công chúa, bây giờ chúng ta không có đường nào mà đi nữa, nếu quân giặc rượt theo, thì chúng ta biết liệu làm sao?
– Chúng ta sẽ có một nẻo đường thông hành ở dưới mấy cái lưỡi gươm của chúng ta đây.
Nói rồi công chúa liền rút cây thanh kiếm bên lưng ra, cỡi ngựa xốc tới chém mấy cây gai gốc cản trở trước đường, hai thể nữ thấy vậy cũng chặt đốn một hồi, gai gốc đều trống hết, thì thấy một nẻo đường nhỏ bên kia ló ra; công chúa bèn giục ngựa đi tới hai ba chục bước, bèn bảo hai thể nữ lấy gai ráp lại rồi, cả ba người đều lướt bụi càn cây đi quanh lộn một hồi, vừa ra khỏi rừng, tới chỗ khoảng trống, bỗng thấy một hòn núi, sờ sờ hiện ra trước mắt, trên hòn núi ấy lại thấy một ánh đèn chớp nháng, ẩn ẩn trong mấy tàng cây.
Thể nữ Bạch Yến la lên rằng:
– Bẩm công chúa có đèn nhà ai ở trên đảnh núi, vậy xin công chúa lần tới thử coi.
Công chúa nghe nói liền giục ngựa lướt tới, lần theo đường mòn bước lên; thì thấy một cảnh chùa nhỏ ở dựa thạch bàn. Công chúa với hai thể nữ xuống ngựa bước vào thấy một hòa thượng trạc chừng ba mươi mấy tuổi, đương ngồi trên ghế, lật đật chạy ra tiếp chào công chúa và nói rằng:
– Thưa quí nương ở đâu lạ mặt, có việc chi mà đến đây trong lúc đêm hôm? Phải là khách đoàn việt viếng chùa, hay là người du phương điền điệp?
Công chúa đáp rằng:
– Ta là công chúa Ngọc Duệ là chánh thất của quan CHưởng cơ Nguyễn Hữu Thoại, trấn tại đồn Bình Hóa, bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Danh Tập đem binh đánh lấy, nên ta chạy lạc vào đây, xin hòa thượng cho ta tá túc một đêm, sáng mai ta sẽ tìm qua xứ khác.
Hòa thượng nghe nói liền rảo mắt ngó công chúa với hai thể nữ rồi đáp rằng:
– Bẩm công chúa, vậy xin mời công chúa và hai cô vào trong đặng dùng trà giải khát.
Công chúa và thể nữ cột ngựa nơi trước chùa, rồi cùng nhau vào trong, thấy trên cửa có một tấm bảng đề là “Vân Phong Tự” trong chùa chỉ thờ một ít vị Phật trên bàn mà thôi, chớ chẳng có chưng dọn chi hết.
Hòa thượng liền mời công chúa bước vào hậu đường, thì thấy có một bộ ván, và ít cái ghế ngồi sơ sài, phía bên chái có một căn phòng nhỏ nhỏ, hòa thượng bảo mấy tên đạo chúng trải chiếu pha trà, rồi chắp tay mời công chúa và thể nữ ngồi và nói rằng:
– Bẩm công chúa, chùa nầy chật hẹp không có xứng đáng mà rước một vị quới khách như công chúa, vậy xin công chúa miễn chấp.
Công chúa nói:
– Không hề gì, miễn có chỗ cho chúng ta nghỉ đỡ một đêm thì thôi, xin thoàn sư chớ ngại.
Công chúa và hai thể nữ uống ít chung trà, rồi bước ra ngoài hậu đường, thấy phía sau có một nhà nhỏ, đứng xem bốn phía, thấy non cao rừng rậm, cây cỏ mịt mù, thật là một chỗ cùng cốc thâm lâm, sơn khe hiểm trở. Công chúa day lại hỏi hòa thượng rằng:
– Chỗ nầy có đường nào thông hành qua xứ khác không?
– Bẩm công chúa, chỗ nầy là chỗ đã cùng đường, chỉ có một đường của công chúa vào đây khi nãy đó thôi, còn bốn phía chung quanh đều là truông hố hiểm nguy, rừng cao nước độc, không thế gì đi đâu cho đặng.
Công chúa nghe nói thì nheo mày cúi mặt, rồi cắn móng tay cái nơi miệng mà nghĩ thầm rằng:
– Nếu vậy thì quả thật ta đã vào chỗ tuyệt vức cùng đồ đây rồi, không còn đường nào mà mong qua xứ khác cho được.
Hòa thượng đưa qua cặp mắt láo liên, trộm liếc công chúa rồi hỏi rằng:
– Bẩm công chúa, công chúa muốn hỏi thăm đường đặng qua xứ nào?
– Ta muốn qua Tây Ninh hay là trở về Bà Rịa, hai xứ ấy có ngả nào đi băng trong rừng mà đến đó đặng không?
– Bẩm công chúa, muốn đi qua hai xứ đó, thì phải trở lại đường cũ là đường công chúa vào đây đó mà thôi, chớ không có đường nào khác hết.
Công chúa nghe nói thì đứng sững và nghĩ thầm rằng: “Ngoài đường thì bị quân Tây Sơn ngăn đón, chung quanh lại bị rừng núi bao vây, thế thì số mạng ta chỉ đến chừng nầy mà thôi, nên khiến cho ta thất lạc vào đây là chỗ cùng đồ tuyệt mạng”, nghĩ vậy rồi day lại nói với hòa thượng rằng:
– Thôi, hòa thượng hãy tự tiện nghỉ ngơi, để chúng tôi vào hậu đường tá túc một đêm rồi sáng ra sẽ tính.
Nói rồi công chúa với hai thể nữ vào hậu đường đóng cửa lại nghỉ.
Còn hòa thượng đi thẳng ra phía nhà sau, cách chùa chừng ba bốn chục thước, cũng đóng cửa lại, rồi kêu hai tên sãi kia và nói rằng:
– Các anh em, hôm nay chúng ta gặp được một cơ hội rất may mắn lắm.
Hai tên sãi kia nghe nói, thì ngó sững hòa thượng mà hỏi rằng:
– Bạch hòa thượng, cơ hội gì mà hòa thượng gọi rằng may mắn?
– Các ngươi hồi nãy không nghe nàng ấy nói rằng: nàng là công chúa Ngọc Duệ bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Danh Tập đem binh đánh lấy đồn Bình Hóa, nên nàng bại trận chạy lạc vào đây đó sao?
Hai sãi kia, gặc đầu lia lịa và đồng ứng thinh mà nói rằng:
– Phải, chúng tôi nghe nàng nói vậy, song sự ấy làm sao mà hòa thượng gọi rằng may mắn?
Hòa thượng cười khan một tiếng rồi nói rằng:
– Sự đó là một cơ hội may mắn cho ta và cho hai ngươi lắm đó, để ta nói hết cho hai ngươi nghe.
Hai sãi nghe nói một cơ hội may mắn cho mình thì lật đật bước lại một bên hòa thượng, rồi một tên vẩu tai để nghe, còn một tên nhướng mắt ngó sững.
Hòa thượng tằng hắng một tiếng cho thông cổ rồi nói rằng:
– Nguyên khi trước ta với Nguyễn Danh Tập chẳng những là người đồng hương đồng xứ mà thôi, lại là một bạn đồng song đồng chí, học một trường, nằm một chiếu, kết làm một bạn thiết nghĩa thân bằng.
Khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đem binh vào Qui Nhơn, đi ngang qua tỉnh Quảng Nam, nghe thiên hạ đồn rằng tại Ngũ Hành Sơn dựa bên mé biển, có một cái hang rất sâu, có kẻ kêu là hang ‘Thuồng luồng’ lại có người là hang ‘Âm Phủ’, thường thường những người phường chài ở theo mé biển đó, hay bị giống yêu quái chun ra mà làm hại chẳng biết bao nhiêu. Vua Tây Sơn nghe thì lấy làm một sự quái gỡ, bèn dắt các quan binh đến viếng, thấy hang ấy ở dựa chơn núi rất to, trên miệng lớn bằng hai căn nhà, ngó xuống sâu xa thăm thẳm. Vua Tây Sơn muốn biết hang ấy sâu cạn thế nào, và thông hành vào đâu, thì day lại hỏi các quan tùy tùng rằng:
– Trong hàng tướng sĩ ai dám xuống đó mà thám dọ địa huyệt?
Các quan văn võ chẳng ai dám đi, lúc ấy ta và Nguyễn Danh Tập mới xin đầu quân, được tuyển làm thị vệ, đồng theo hộ giá vua Tây Sơn. Nguyễn Danh Tập thấy vua Tây Sơn hỏi vậy, mà chẳng một ai dám chịu lãnh mạng ra đi, thì bàn với ta rằng:
– Hai ta mới vào đầu quân, chưa có lập được công cán chi hết, vậy nhơn dịp nầy chúng ta tình nguyện xin đi, ngỏ đặng lập chút công lao, thì mới mau thăng quan tấn chức.
Ta nghe Nguyễn Danh Tập nói vậy, bèn vỗ ngực chịu liền, đó rồi hai ta đồng ra phụng mạng xin đi thám dọ địa huyệt.
Hai sãi kia nghe nói, rùng mình một cái mà rằng:
– Hòa thượng thật là dạng gan lắm, hòa thượng không sợ yêu quái sao?
Hòa thượng mỉm cười rồi nói tiếp rằng:
– Vua Tây Sơn thấy Nguyễn Danh Tập và ta chịu đi, thì vui sắc mặt mà nói rằng: Ta khác khen cho hai ngươi là người mới đầu quân, mà có gan đởm, vậy hai ngươi có đi thì ta sẽ cho mười tên quân nhơn tùy tùng đặng giúp đỡ hai ngươi trong lúc hữu sự. Ngài nói rồi liền truyền cho mười đứa quân nhơn, mỗi đứa đều cụ bị khí giới và đem theo một bó đèn chai, hơn cả trăm cây, còn Nguyễn Danh Tập và ta thì ngài ban cho mỗi người một cây súng và thuốc đạn đều đủ. Ngài lại phát cho một cái thùng cây, và một đường dây dài hơn hai mươi mấy sải, với hai cái Đồng la rất to.
Hai sãi kia nghe nói lấy làm lạ, day lại hỏi rằng.
– Vua Tây Sơn ngài phát cho mấy món ấy, cốt để làm gì? Sao lại dây luộc và đồng la, để làm chi vậy?
Hòa thượng nói:
– Cái thùng và đường dây ấy là để khi gặp chỗ hang sâu vực thẳm, thì phải một người vô ngồi trong thùng rồi cột dây mà thòng xuống, còn hai cái đồng la đó, thì để phòng khi nào có gặp yêu quái dữ tợn, thì đánh lên cho giống nó nghe mà hãi kinh, và cho quân sĩ trên miệng hang nghe đặng xuống mà tiếp cứu. Ngài lại truyền cho năm trăm quân sĩ súng ông1 gươm giáo, ngày đêm canh giữ trên miệng hang, để nghe động tịnh thế nào mà phòng bị. Sau khi sắp đặt công việc xong rồi, Nguyễn Danh Tập và ta nai nịt y giáp tử tế dắt nhau xuống hang, hai tên quân cầm đèn đi trước rọi đường, hai ta thì gươm dắt bên lưng, súng nghiềm trước mặt, đi quanh lộn trong hang một hồi, hang ấy tối đen, mà càng ngày càng rộng và sâu, coi bộ đường đi còn xa thăm thẳm, hết đèn nầy thắp đèn khác, nhưng cứ việc đi tới luôn luôn, có chỗ đi lên như gò, có chỗ đi xuống như hố, đi ước hồi lâu coi lại thì đốt đã cháy hết năm chục cây đèn chai rồi, mà hang còn dài không biết chừng nào mà đi cho hết.
Nguyễn Danh Tập nói với ta rằng:
– Chúng ta đi một buổi nay đã hết năm chục cây đèn chai rồi, chỉ còn có năm chục cây mà thôi, nếu đi nữa thì chừng trở về chúng ta không đèn mà đi cho đủ, vậy thì chúng ta phải trở về tâu lại cho vua Tây Sơn hay, và xin đèn thêm rồi đi mới được, đó rồi chúng ta đều dắt nhau trở lại.
Khi lên tới miệng hang, thấy quân sĩ còn đứng canh giữ hai bên, mà trời đã tối.
Hai tên sãi kia nghe nói tới đó thì hỏi rằng:
– Nếu vậy hòa thượng với mấy người kia, đi dưới hang ấy ước được bao lâu?
– Khi chúng ta đi, thì mặt trời mới mọc, mà khi về tới miệng hang thì trời đã tối mò.
Hai sãi kia nghe nói nên kinh dị, rồi le lưỡi lắc đầu và nói rằng:
– Thật chẳng biết hang gì sâu dữ như vậy? Mà hòa thượng có đi lần thứ hai nữa không?
– Sao lại không đi, khi chúng ta về tâu cùng vua Tây Sơn, thì ngài lại truyền quân nhơn, đem theo hai trăm đèn chai, phen nầy chúng ta đi khỏi lần trước rất xa, khi đi tới một chỗ rộng kia, thì thấy những đống chi trắng trắng, rãi theo bên hang, ta bèn bảo tên quân nhơn đem đèn lại xem thấy sọ và xương người ta chẳng biết bao nhiêu mà kể, chúng ta thấy vậy đều rởn óc lạnh mình.
Nguyễn Danh Tập day lại nói với ta rằng:
– Chắc có con yêu quái gì đây, thuở nay ăn thịt người ta rất nhiều, nên bỏ sọ xương lại đó.
Mấy tên quân thấy vậy đều thất vía kinh hồn, bèn nói với Nguyễn Danh Tập rằng:
– Xin ngài trở về, nếu đi nữa ắt là chúng ta phải bị yêu quái ăn hết.
Nguyễn Danh Tập cũng thất kinh, song dằn trí xuống làm mặt dạn dĩ và nói rằng:
– Yêu quái thây kệ, chúng ta có sẵn súng đây, nếu nó ra thì ta giết nó cho, không hề gì mà bây sợ.
Nói rồi Nguyễn Danh Tập lấy rượu ra uống và đưa cho ta một ly mà rằng:
– Chúng ta muốn mạo hiểm, thì phải lấy rượu làm nư, và cho mấy tên quân mỗi đứa một cốc, rồi cứ việc lần lần đi tới.
Hai tên sãi kia nghe nói cũng rùng mình mà hỏi rằng:
– Hòa thượng thấy vậy có sợ không? Chớ chúng tôi nghe nói lại đây cũng đủ nhổm gáy.
Hòa thượng nheo mày mà đáp rằng:
– Ai gặp cái cảnh ngộ hung ác như vậy mà chẳng kinh hãi phập phòng, song làm dạn mà đi với anh em, chớ trong lòng đã rụng rời chết điếng.
– Rồi sao nữa xin hòa thượng hãy nói luôn cho chúng tôi nghe thử.
– Chúng ta đi được một đỗi nữa, thì đèn đã cháy gần hết một trăm cây, kế thấy một đống xương rất to, ta bảo hai tên quân nhơn cầm đèn lại coi, thấy một cái sọ voi rất lớn, và có hai cái ngà voi mỗi cái dài hơn một sãi.
Hai sãi nghe nói thì chận lại hỏi rằng:
– Úy, sọ voi và ngà voi ở đâu, sao lại xuống hang âm phủ?
Hòa thượng nói:
– Vì vậy cho nên Nguyễn Danh Tập lấy làm kinh ngạc, day lại với ta rằng: Anh nghĩ thử coi, ngà voi và sọ voi ở đâu, sao lại có dưới hang nầy, tưởng chắc là giống yêu quái kia bắt tới voi, ăn rồi bỏ xương và ngà lại đó chớ gì, vả lại voi là loại thú ở rừng, chớ chẳng phải loại ở hang ở lỗ.
Nói rồi bảo quân tùy tùng lấy cặp ngà để riêng ra, đặng khi trở về lấy mà dâng cho vua Tây Sơn để làm kỷ niệm.
Đó rồi cả thảy mấy anh em kéo nhau lần lần đi tới, đi được một đỗi, bỗng thấy hang ấy trổ làm hai ngách, một ngách trổ ra phía tả, còn một ngách ăn qua phía hữu; đến đó đường hang phân làm hai ngả, ta và Nguyễn Danh Tập đương đứng bàn tính, chưa biết phải đi đường nào, xảy nghe những tiếng ồ ồ ở đâu lần tới, ban đầu còn nghe tiếng ấy xa xa, một chút đã nghe ào ào gần tới, mấy tên quân thảy đều sắc mặt tái xanh, vía hồn mất hết, kêu lên mà rằng:
– Hai ngài ôi, chết, chết, yêu quái đi tới ồ ồ kia cà.
Ta cũng hãi kinh chắc là yêu quái đi tới, liền bước lại hỏi Nguyễn Danh Tập rằng:
– Anh có biết tiếng gì ồ ồ đó không?
Nguyễn Danh Tập cũng tái mặt mà đáp rằng:
– Không biết tiếng gì lạ quá, mà nghe rền dội cả hang.
Ta lại nói với Nguyễn Danh Tập rằng:
– Cái tiếng ấy chẳng bao lâu nữa thì sẽ tới đây, vậy thì bảo quân tùy tùng phải lấy đèn chai đốt thêm cho sáng, rồi chúng ta núp theo hai bên kẹt đá, đặng để rình coi, nếu quả yêu quái đến, thì hắn thấy lửa cũng chẳng dám lại gần, còn mình thì núp theo kẹt tối dòm ra, đặng coi yêu quái thế nào cho biết.
Nguyễn Danh Tập nghe ta nói vậy liền đáp rằng:
– Anh nói phải đa, phàm yêu quái thấy lửa sáng thì có lẽ phải sợ mà chẳng dám lại gần.
Nói rồi truyền cho mấy tên quân, lấy đèn chất lại một đống, rồi đốt cháy rần rần, chói ra sáng rỡ. Kế có một luồng gió thoảng tới ồ ồ, thổi qua lạnh ngắt, và phưởng phất nay ra những mùi rất hôi tanh lạ thường, thật là một trận gió rất tanh, làm cho chúng ta đều phải nín hơi bịt mũi.
Nguyễn Danh Tập bèn kêu ta mà nói nhỏ rằng:
– Chắc nó, chắc nó, chúng ta phải nghiềm súng cho sẵn, và bảo mấy tên tùy tùng phải tuốt gươm ra, núp theo mấy đống xương voi, phòng khi hữu sự mà cự chiến.
Mấy tên quân vâng lịnh lại núp theo sau đống xương, mà sợ đã run en phát rét, còn ta với Nguyễn Danh Tập ực thêm hai cốc rượu nữa cho tráng kiện tâm thần, nhưng hai hàm răng cũng cứ khua nhau nghe kêu cấm cốp.
Hai sãi kia nghe nói cũng lạnh mình, rồi thúc rằng:
– Hòa thượng hãy nói mau cho chúng tôi nghe coi yêu quái ấy sẽ ra thế nào.
Hòa thượng trợn cặp mắt ốc bưu lên ngó hai sãi và nói cách tỉnh tề rằng:
– À, thật quái gở lắm, thật ghê gớm lắm, nếu hai chú lúc ấy ở đó, thế cũng bay mất tâm hồn, mà ngã lăn té xỉu.
Hai sãi nghe nói rất lạnh mình, rồi lại thúc rằng:
– Hòa thượng nói đi, hai tôi muốn nghe chuyện con yêu quái rất ghê gớm ấy.
Hòa thượng quay đầu dòm ra ngoài trời một hồi, và day lại ngó lên trên chùa, lóng tai nghe chi một chút rồi hỏi hai sãi rằng:
– Bây giờ ước chừng mấy canh?
– Bạch hòa thượng, bây giờ đã hết canh một, ước chừng nhằm lối canh hai.
Hòa thượng suy nghĩ một chút rồi bảo hai sãi rằng:
– Hai ngươi hãy lén lên chùa, nghe coi công chúa với hai đứa thể nữ ngủ chưa, và xuống nói cho ta biết, rồi ta sẽ thuật hết chuyện con yêu quái cho hai ngươi nghe.
Hai sãi thưa vâng, liền mở cửa bước ra, sẽ lén lên chùa đứng ngoài rình nghe một hồi, thấy trong chùa đều lặng lẽ, mà đèn ở hậu đường đã tắt tối đen, chỉ còn một ngọn đèn dầu chong trên phật đài, khi tỏ khi mờ, nháng ra leo lét; hai sãi bèn ghé mắt vào kẹt vách mà dòm vô, thấy công chúa nằm trong phòng nhỏ, kế giữa hậu đường, còn hai thể nữ nằm trên ván sau phía bên góc chái, cả thảy ba nàng đều mê man giấc điệp, phê phê một vóc trà mi, nghiêng ngửa gối hòe, phới phới hai nhành thược dược, xem hoa rồi động, thật là gái thuyền quyên đẹp đẽ dạng hình; thấy ngọt cũng thèm, khiến cho sãi yêu nghiệt ngẩn ngơ hồn phách.
Hai sãi xem rồi, nuốt nước miếng, và lật đật trở lại nhà sau, hé cửa bước vào, thì hòa thượng còn ngồi nơi ghế.
Hòa thượng thấy hai sãi bước vọ, thì hỏi nhỏ rằng:
– Hai ngươi có thấy chi lạ trên chùa không?
– Bạch hòa thượng, không chi lạ hết, chỉ thấy ba nàng nằm đó phê phê, mà coi bộ ngủ mê thiêm thiếp, chớ không chi lạ cả.
Hòa thượng nghe thì có ý nghĩ nghị điều chi một chút rồi day lại nói rằng:
– Nãy giờ hai cặp mắt ngươi đã xem thấy ba vóc tiên nga đẹp đẽ, bây giờ bốn lỗ tai ngươi có muốn nghe chuyện yêu quái gớm ghê nữa không?
Hai sãi chúm chím mà nói rằng:
– Bạch hòa thượng, xin hòa thượng thuật tiếp chuyện yêu quái ấy cho tôi nghe.
Hòa thượng nói:
– Hồi nãy ta thuật chuyện ấy tới đoạn nào, hai ngươi nhớ không?
– Bạch hòa thượng, tới cái đoạn một trận gió tanh, làm cho hòa thượng phải nín hơi bịt mũi đó mà.
Hòa thượng gặc đầu rồi tiếp rằng:
– Khi trận gió ấy thoảng tới hơi bay lạnh ngắt mà mùi phất tanh rình, bỗng nghe phía hang bên tả, tiếng chi ồ ồ, dường như có giống gì lần lần đi tới. Nguyễn Danh Tập liền bước lại nói nhỏ với ta rằng:
– Chắc nó, chắc nó, chúng ta hãy núp sát vào kẹt hang.
Còn bốn mắt đều chăm chăm ngó ngang ngọn lửa đương cháy, kế thấy phía hang bên tả, ló ra một cái đầu rất lớn như cái lu, hai mắt đỏ như hai ngọn lửa, hai lỗ mũi lớn như mũi trâu, mặt có đúm đỏ đúm đen, trên đầu có một cái mồng xanh lét như chàm, lòng thòng hai bên như hai cái túi, hàm răng chôm chổm như hai cái bàn chông, trên cổ có hai cái khoen vàng lườm, và hai khoen đỏ lói.
Con yêu quái ấy cất đầu lên cao hơn ba thước, ngó chăm chăm đống lửa, rồi le lưỡi ra dài hơn mười sãi, liếm trên ngọn lửa một cái, và phùng hai mang ra thổi tới nghe tiếng vo vo, lúc bấy giờ lửa lại rần rần cháy lên rất dữ.
Ta và Nguyễn Danh Tập cầm súng núp trong kẹt đá, mà cả và mình mẩy run như thằng lằng đứt đuôi, kế thấy con quái ấy quày đầu lại chun qua phía hang bên hữu, rồi tha thểnh bò đi, thì thấy trên lưng đen láng như huyền, mà bên hông thì có sọc vàng sọc xanh xen nhau, xem rất ghê gớm.
Nguyễn Danh Tập và ta thấy con yêu quái ấy chun qua hang kia bò đi, thì hồn vía mới lần lần tỉnh lại, rồi để rình coi nguyên hình của nó thể nào, thì thấy mình lớn ước chừng hai ôm, khúc thì gò lên, khúc thì dủi tới, khúc thì thun lại, khúc thì giãn ra, thỉnh thoảng bò đi, xem trên lưng như lằng sóng dợn, trườn trên mặt đất nghe tiếng ồ ồ, hơi bay tanh ói.
Hai sãi kia nhăn mày nhíu mặt rồi hỏi rằng:
– Bạch hòa thượng, con yêu quái ấy bề to ước chừng hai ôm, mà bề dài độ chừng mấy sải?
– À, ta không biết mấy chục sải, nhưng ta thấy nó bò ngang qua đó từ đầu cho tới khúc đuôi, độ chừng hút tàn điếu thuốc mới hết, thì tưởng mình nó dài ra ước chừng một trăm sải là ít.
Hai sãi kia la lưỡi như rắn lục và nói:
– Trời ôi! Con yêu quái gì mà lớn và dài dữ vậy, phải nó là rắng mảng xa to không? Hay là con thuồng luồng chi đó?
Hòa thượng nói:
– Loại rắn thì có vảy có vi, mà con yêu quái nầy thì mình mẩy láng trơn, và trên đầu đội một cái mũ mồng xanh, cổ đeo bốn cái khoen vàng đỏ, xem rất kỳ dị, song cũng là may, chúng ta nhờ có đống lửa, nên mới còn sống sót lại đây, nếu không, thì con yêu quái ấy đã nuốt chúng ta vào bụng.
Khi con yêu quái bò đi mất rồi, Nguyễn Danh Tập và ta lật đật trở lại, bảo quân đem cặp ngà voi về dâng cho vua Tây Sơn, để làm dấu tích, khi chúng ta lên khỏi miệng hang, hỏi lại các quan thì nói rằng chúng ta đi trọn một ngày một đêm, nhưng chưa biết hang ấy còn phải đi tới đâu mới hết.
Đó rồi chúng ta dâng cặp ngà voi cho vua Tây Sơn, và thuật lại những sự chúng ta gặp thấy cho ngài nghe, thì ngài rất kinh dị và nói rằng:
– Những loại sơn yêu, hải quái, cự mãng, trường xà, từ xưa đến nay vẫn cũng thường có; mà nhứt là trong xứ nào cỏ rậm rừng hoang, thâm san cùng cốc, như trong xứ ta, thì chắc là loại yêu quái ấy còn tàng ẩn hại người chẳng biết là bao nhiêu mà kể? Nay hai ngươi có công mạo hiểm, mà đi thám dọ cái địa huyệt nầy, thật cũng đáng khen, vậy ta thăng thưởng cho hai ngươi làm chức trung húy.
Rồi ngài sai ta đi vận tải lương thảo về Qui Nhơn, còn Nguyễn Danh Tập thì coi đạo Ngự lâm quân theo ngài mà hộ giá.
Hai sải nói:
– Thật hòa thượng có gan đởm lắm, nếu bảo chúng tôi vào hang ấy mà thám dọ, thì chúng tôi chẳng hề khi nào dám đi. Bây giờ sự thám dọ địa huyệt và sự gặp yêu quái ấy, hòa thượng đã thuật chuyện hết rồi, nhưng còn một sự công chúa thất trận chạy lạc vào đây, mà hòa thượng gọi rằng một cái cơ hội may mắn cho chúng ta là may mắn thế nào, hòa thượng nói cho nghe thử.
– Khoan, khoan, chút nữa ta sẽ thuật tới chuyện đó, bây giờ ta thuật sự ta đi vận tải lương thảo cho hai người nghe; khi ta phụng mạng vua Tây Sơn vận lương về Qui Nhơn ta đem một đội quân 50, phân làm hai tốp, 25 tên đi trước, kế đó 50 xe lương, và ba chục xe nhung y binh khí, cả thảy là 80 xe, đều đi chính giữa, còn một tốp hai mươi lăm tên quân thì hộ tống theo sau. Khi tới địa phận tỉnh Bình Định, bỗng gặp hai người mang gói cỡi ngựa đứng dựa bên đường, thấy ta liền lật đật xuống ngựa, cúi đầu thi lễ, ta thấy vậy thì hỏi rằng:
– Hai ngươi đứng đây làm gì?
Hai tên ấy vòng tay bẩm rằng:
– Bẩm quan lớn, hai tôi là người ở Quảng Nam, đem hàng lụa vào Qui Nhơn buôn bán, song nghe nói đường nầy có quân mọi Đá-Vách hay xuống cướp giựt những kẻ bộ hành, nên chúng tôi sợ chẳng dám đi, để chờ có đông người sẽ rủ nhau đồng đi một lượt.
Ta nghe nói vậy liền bảo rằng:
– Thôi hai ngươi hãy đi theo ta, không sao phòng ngại.
Hai tên ấy rất mừng và cảm ơn, rồi mang gói cỡi ngựa đi theo, ước được mười mấy dặm đường, thì trời đã tối; ngó ra hai bên, rừng cây mù mịt, non núi chập chồng, kế có một quân nhơn chạy lại nói với ta rằng:
– Bẩm quan lớn, cách đây chừng năm dặm, thì tới ngả ba núi Hạt Sơn, một đường thẳng về Qui Nhơn, còn một đường tẻ lên trên mọi, chỗ đó hiểm nghèo lắm, thường thường quân mọi Đá-Vách hay xuống cướp giết người ta, xin quan lớn đình lại, để sáng mai sẽ đi cho tiện.
Ta tự ỷ rằng, có quân gia hộ tống thì còn sợ gì quân cướp chận đường, bèn truyền quân đốt đuốc thắp đèn, cứ việc xăm xăm đi tới, đi được ít dặm, xảy nghe rầm rì sấm chớp, rải rắc mưa tro, tiếng vó ngựa hòa với tiếng bánh xe, đi nghe rần rần rột rột, còn bao nhiêu quân lính đều lẳng lặng như tờ, chẳng ai nói năng một tiếng.
Lúc bấy giờ ta cỡi ngựa đi kế xe lương, ngó lại thì thấy hai tên hành khách đương đi phía sau, mà mặt mày tái ngắt, tay chơn run rẩy như bị chứng cảm hàn, ta thấy vậy thì hỏi rằng:
– Hai ngươi bị rét sao mà mình run bây bẩy đi vậy?
Hai tên ấy cúm núm thưa rằng:
– Bẩm quan lớn, chúng tôi nghe tên quân nói chỗ nầy giống mọi Đá-Vách dữ lắm, và chúng tôi cũng thường nghe thiên hạ đồn rằng giống mọi ấy bắt đặng người ta, chẳng những đoạt cướp bạc tiền mà thôi, lại còn mổ ruột móc gan mà ăn nữa, nên chúng ta sợ quá, rồi tự nhiên phát run.
Nói rồi coi bộ dớn dác và sợ hãi lắm.
Ta thấy vậy thì tức cười và bảo rằng:
– Hai ngươi có sợ, thì theo sau ta đây mà đi.
Hai tên ấy nghe nói mừng quýnh, bèn cỡi ngựa đi theo phía sau, mà xem sắc mặt cũng còn tái lét, kế tên quân ở tiền đội chạy lại báo rằng:
– Bẩm quan lớn, chúng tôi thấy có dạng người, đương ngồi dựa triền núi rất nhiều, chắc là quân mọi Đà-Vách núp đó mà rình ta, xin quan lớn định liệu thế nào mà kháng cự với chúng nó.
Ta nghe báo vậy, liền truyền cho 25 tên quân tiền đội, sắm sửa khí giới đi tới, còn ta với hai tên hành khách cỡi ngựa theo sau, cả thảy đều chăm chỉ ngó hai bên đường và ngó vào triền núi, còn hai tên hành khách thì rên hì hì và run bẩy bẩy như thằng lằn đứt đuôi.
Khi đi tới được chừng trăm bước, các quân tiền đội ré lên dậy trời, rồi rút giáo gươm ra, và huơi đuốc rọi tới, thì thấy những bóng đen ấy rần rần kéo nhau mà chạy cả bầy, coi lại té ra bầy nai ăn đêm, chớ chẳng phải giống mọi Đá-Vách. Chừng ấy hai tên hành khách mới tỉnh hồn, rồi lầm thầm vái rằng:
– Vái thần linh thổ võ, vái bổn cảnh thành hoàng, cho chúng tôi mạnh giỏi lên đàng, đi tới nơi về tới chốn, bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua.
Hai sải nghe hòa thượng nói tới đó thì cười rộ lên mà rằng:
– Thật hai thằng bộ hành ấy nhát như thỏ đế, nó sợ quân mọi ấy móc ruột nó mà ăn nên kinh hồn hoảng vía, rồi sao nữa hòa thượng nói luôn.
Hòa thượng day lại lấy một chung trà, uống kêu cái ọt rồi nói tiếp rằng:
– Đó rồi ta đốc quân đi tới, ước đặng bảy tám dặm đường, bỗng thấy một người mặc đồ võ phục sắc đen, cỡi một con ngựa ô-chùy rất cao, như giông ngựa Bắc thảo, tay cầm trường thương, lưng đai bữu kiếm, lại có hai người cũng cỡi ngựa cầm giáo đứng cặp hai bên, xem bộ tịch rất hùng hùng củ củ. Kế đó, người cỡi ngựa ô chùy huơi thương xốc tới rồi kêu lớn lên rằng:
– Ta là Châu Văn Tiếp, nãy giờ ở đây chờ bây đã lâu, vậy bây phải hiến nạp cả thảy mấy chục xe lương nầy cho ta, thì ta dung thứ mạng cho, bằng nghịch ý ta thì chúng bây không còn một đứa.
Ta nghe tới tên Châu Văn Tiếp thì đã rụng rời, biết là một người võ dõng tuyệt luân, anh hùng xuất chúng, nhưng chẳng thấy quân mã chi hết, thì nghĩ thầm rằng: “Va đi một mình với hai tên bộ hạ chẳng có binh gia, còn ta thì quân sĩ hơn năm mươi, vậy ta đánh liều một trận thử coi, chẳng lẽ bó tay mà chịu.” Ta nghĩ như vậy, rồi giục ngựa huơi thương, dốc quân xốc tới xáp chiến; nhưng Châu Văn Tiếp chống giáo đứng trơ, nghiễm nhiên như một thiên thần, chẳng thèm rúng động chi hết, bỗng nghe Châu Văn Tiếp kêu lớn lên rằng:
– Dương Hùng và Châu Hổ, sao chưa ra tay còn đợi chừng nào?
Kêu vừa dứt lời, bỗng thấy một vòng dây phía sau quăng tới vấn cả mình ta, rồi giựt ngược lại sau một cái rất mạnh, làm cho ta đương ngồi trên ngựa, tức thì té nhào xuống đất, thì thấy hai tên hành khách hồi nãy, nhảy tới rút gươm đưa ngay cổ ta, và trợn mắt lườm lườm mà nói cách nghiêm nghị rằng:
– Ngươi hãy truyền cho quân nhơn bỏ hết gươm giáo xuống đất, mà hàng đầu cho mau. Nếu bất tuân thì ta khai đao cho ngươi lập tức, mau, mau!
Ta thấy hai mũi gươm chỉ ngay vào yết hầu, thì hồn tiêu phách tán, biết không thế gì cự được tức thì ta phải truyền quân bỏ giáo hàng đầu, chẳng dám chống trả chi hết.
Hai sải kia nghe hòa thượng nói vậy, thì rất nên kinh ngạc, rồi trợn mắt tròn vo và nói rằng:
– Chết chưa! Nếu vậy thì hai thằng đó không phải là bọn bán hàng gói sao? Nếu vậy thì chúng nó là tướng sĩ của Châu Văn Tiếp sao?
Hòa thượng gặc đầu mà rằng:
– Chính là nó đó chớ ai, khi nãy hai tên hành khách, bộ tướng như đứa rét vỏ-da, trói gà không chặt, mà lúc bấy giờ coi bộ chúng nó dữ như hai con mảnh hổ, mạnh như hai vị thiên thần; khi nãy chúng nó mình mặc áo tơi, đầu đội nón nhọt, mà lúc bấy giờ, chúng nó lại mình mặc võ phục, lưng dắt đoản đao, thật là nó đổi dạng thay hình rất mau. Xem ra mới biết là một chước quỉ mưu thần của chúng nó sắp đặt hồi nào, làm cho ta thấy vậy mà phải điên hồn hoảng vía.
Hai sải kia nghe nói cũng hồn phách ngẩn ngơ rồi hỏi tiếp rằng:
– Nếu vậy hòa thượng phải bị chúng nó bắt sao?
– Sao lại không bị, nếu ta cưỡng lý, thì ta phải chết ngay dưới hai lưỡi đao đó rồi. Lúc bấy giờ năm chục tên quân đều thúc thủ hàng đầu, rồi hai tên ấy dẫn ta tới trước, ra mắt Châu Văn Tiếp.
Châu Văn Tiếp liền bảo hai tướng bộ hạ là Dương Hùng với Châu Hổ, là hai thằng giả dạng hành khách mà bắt ta đó, đem ta bỏ vào tù xa mà nhốt lại, còn bao nhiêu lương thảo khí giới, đều đoạt hết mà chở về Trà Lang Sơn, rồi kéo binh thẳng vào Gia Định.
Nguyên Châu Văn Tiếp lúc ấy ở tại Trà Lang Sơn chiêu binh mãi mã, đặng giúp đức Nguyễn vương. Bữa nọ quân thám tử về báo rằng có tướng Tây Sơn vận tải lương thảo về Qui Nhơn rất nhiều nên Châu Văn Tiếp sai hai tướng bộ hạ là Châu Hổ với Dương Hùng, giả dạng hành khách đặng trà trộn theo quân Tây Sơn, mà đoạt thâu lương thảo.
Hai sải kia thở ra một cái và nói rằng:
– Nếu vậy thì hòa thượng đã bị bỏ vào tù xa, rồi hòa thượng làm sao thoát ra, bấy giờ về đây mà trú ngụ?
Hòa thượng cười hì hì mà rằng:
– Khi Châu Văn Tiếp ở Trà Lang Sơn kéo binh vào Saigon, bữa nọ về tới Biên Hòa thì trời đã tối, bèn truyền quân hạ trại nghỉ ngơi, đêm ấy trời mây tăm tối, mưa gió mịt mù, còn hai tên quân canh giữ tù xa, cũng kiếm chỗ nằm co, rồi ngủ khò như vụ. Ta liền lén lén phá cửa tù xa, rồi thoát ra vòng binh, chun tuốt vào rừng mà trốn.
Hai sải kia chặn ngang lại mà hỏi rằng:
– Nếu vậy hòa thượng là một người tù vượt ngục đó sao?
Hòa thượng cười một tiếng lạt lẽo mà nói rằng:
– Hai người khờ quá, nếu ta không vượt ngục thì làm sao ta còn sống sót đến ngày nay. Khi ta trốn ra khỏi vòng binh của Châu Văn Tiếp rồi, lúc bấy giờ ta muốn trở về Qui Nhơn phục mạng, nhưng sợ một nỗi vua Tây Sơn bắt tội, về sự thất thủ quân lương, còn muốn vào Saigon, thì lại sợ Châu Văn Tiếp sai người tập nã. Vì vậy mà tấn thối lưỡng nan, nên ta phải vào núi nầy ẩn tích mai danh, chờ cơ hội sẽ tính bề ra mặt. May thay cho ta ngày nay, thời hên đã tới, vận bỉ hầu qua, khiến cho ta gặp đặng Nguyễn Danh Tập nầy là một vị thần hạnh phúc của ta, còn công chúa Ngọc Duệ kia, chính là một miếng mồi xông danh của ta vậy, đó là một cơ hội may mắn cho ta, như lời ta đã nói với hai ngươi khi nãy.
Hai sải kia nghe nói thì bốn mắt nhìn nhau, mà ngẩn ngơ tuồng mặt, không hiểu cái gì là vị thần hạnh phúc, cái gì là miếng mồi công danh, rồi day lại hỏi rằng:
– Bạch hòa thượng nói gì mà gọi rằng miếng mồi công danh, vị thần hạnh phúc? Chúng tôi không hiểu, xin hòa thượng cắt nghĩa lại nghe.
– Ờ, hai người chưa rõ à? Số là công chúa Ngọc Duệ nầy là kẻ nghịch tặc của Nguyễn Danh Tập với vua Tây Sơn, nay công chúa bại trận thất lạc vào đây. Vậy thì đem nay ta tính lấy đầu công chúa đem ra xin Nguyễn Danh Tập hiến nạp cho vua Tây Sơn, đặng chuộc cái tội ta làm thất thủ quân lương ngày xưa, ấy gọi rằng đoái công thục tội, thế nào Nguyễn Danh Tập cũng nghĩ tình cố hữu thân bằng, mà bảo tấu với vua Tây Sơn, đặng xả tội tiền niên cho ta, mà phục hồi cựu chức; ấy vậy chẳng phải công chúa Ngọc Duệ là miếng mồi công danh của ta, và Nguyễn Danh Tập là vị thần hạnh phúc của ta đó sao? Hai ngươi hiểu chưa?
Hai sải nói:
– Úy, hòa thượng bây giờ tính chặt đầu công chúa sao? Công chúa lịch sự quá, mà hòa thượng giết đi thì tội nghiệp và uổng lắm.
Hòa thượng nói:
– Không giết công chúa thì chúng ta ở đây mà chịu chết đói sao? Vậy hai ngươi phải ráng giúp ta, đặng giết công chúa đêm nay, nếu cái hy vọng ta được hoàn thành, thì ta sẽ bảo cử hai ngươi làm bộ hạ phúc tâm của ta, mà chung hưởng sự công danh chức phận.
Hai sải ấy nghe nói liền vỗ ngực mà rằng:
– Chúng tôi sẵn lòng, sẵn lòng. Bây giờ làm thế nào mà giết công chúa, xin hòa thượng bảo cho chúng tôi, đặng chúng tôi thi hành lập tức.
Hòa thượng nói:
– Ta xem công chúa là một cô gái có tài năng võ dõng, và hai thế nữ cũng đều lực tráng thân cường, chẳng phải như bọn nhi nữ tầm thường, mà hai ngươi khinh suất, vậy hai ngươi phải lén cạy cửa trước chùa, rồi vào bắt hai đứa thế nữ trói lại, còn công chúa Ngọc Duệ, thì để ta lén vào giết nó mà lấy đầu. Hai ngươi phải ráng sức gia tâm, đừng để chúng nó thoát ra, nếu họa hổ bất thành, thì chúng ta ắt phải mang hại, chớ chẳng chơi đâu.
Hai sải mừng rỡ và nói:
– Được được, hòa thượng cứ việc thi hành công chúa đi, còn hai đứa thế nữ để cho hai tôi, không sao phòng ngại.
Hòa thượng nói rồi, vào trong xách ra một con dao nhọn mũi, và sáng giới, rồi vo quần chí gối, vận áo ngang trôi, còn hai sải kia mỗi người một cây thước nách, một ngọn dao lưng và một đoạn dây gai, sắp đặt sẵn sàng, rồi cả ba đều sẽ lẻn bước ra trước chùa. Hòa thượng bảo hai sải cạy cửa, còn mình đứng núp một bên, ghé mắt coi chừng và lóng nghe động tịnh.
***
Sương sa lác đác, cây cỏ lào xào, ngóng trước xem sau, quạnh quẻ một cảnh rừng thuyền tối mịt, kìa bóng đèn thấp thoáng, khi lấp ló, lúc lom khom, nọ tiếng nói xầm xì, khi lên to lúc bỏ nhỏ.
Cộp cộp, kẹt kẹt.
– Nó ngủ mê không?
– Ngủ đã mê man, không thấy cục cựa,
– Nhẹ tay một chút, kẻo chúng nó giựt mình,
– Thưa vâng,
– Cái lổ kẹt ở đâu,
– Ở dưới, ở dưới, lấy tay rờ nó thử coi,
– Có, có,
– Thôi đừng nói nữa, mà nó thức dậy đi giờ, Im đi.
– Im đi.
Cộp cộp, kẹt kẹt, hé ra một chút.
– Nhận chốt xuống rồi rút ra, được, được, ra rồi, ra rồi,…
Trong lúc canh khuya đêm vắng, mà nghe những tiếng rì rầm thầm thỉ cùng nhau ở dựa mé thềm, tợ hồ tiếng của đứa gái trai to nhỏ, dường như tiếng của bọn trộm phấn nếm hương, nhưng mà nghe rõ lại thì chẳng những tiếng lớp tuồng trên bộc trong dâu, mà chính là tiếng của hòa thượng nói thầm thỉ với hai sải kia trong khi cạy cửa.
khi mở cửa được rồi, hòa thượng nói nhỏ với hai sải kia rằng:
– Hai ngươi đi vòng ra cửa sau là chỗ hai con thể nữ nằm ngủ, lén lấy cặp song kiếm của nó trước đi, rồi lấy dây làm vòng cho sẵn, hễ nghe ta hô một tiếng, thì đè nó xuống mà trói cả tay chơn, đừng cho ních động, nghe không?
Hai sải thưa vâng, rồi đi vòng ra sau, còn hòa thượng thì xách con dao mũi nhọn, sáng hoắc như gươm, nhẹ bước lén lén vào phòng công chúa.
Tội nghiệp cho công chúa bị chiến trận liên miên mấy bữa, mà phải ăn ngủ thất thường, tâm thần mỏi mệt, nên nằm xuống thì ngủ đã mê man, nào dè đâu giống sải ác tăng nầy là quân khẩu mật tâm xà, ngoài miệng thì nói ngọt như đường, mà trong lòng lại độc như rắn, muốn đồ mưu thết kế mà hãm hại một gái anh hùng, thật rất ghê gớm thay cho cái thế thới nhơn tình, ngày đêm xé óc ra mà kiếm những sự ích kỷ tổn nhơn, tìm những sự sát sanh tàn nhẫn mà coi, rốt cuộc thì cũng vì con quỉ tham ô, miếng mồi danh lợi, mà làm cho một khối lương tâm phải chết mất.
Trước khi tên hòa thượng nầy vào phòng mà sát hại công chúa, thì đứng dựa bên cửa, kê tai vào vách, lóng nghe hơi thở công chúa mạnh yếu thế nào, cho biết thức hay là ngủ, đứng lặng một hồi, thì nghe công chúa ngủ ngáy pho pho, hơi thở rất mạnh, liền sẽ lén vén màn, nhẹ bước vào phòng, thấy công chúa nằm nghiêng một bên day mặt vào vách mà ngủ, thì nghĩ rằng: “Nếu nó ngủ thế nầy, thì ta đâm ngang hông nó, sấn vào tới ruột, ắt là tự nhiên nó cũng phải chết, kế thấy công chúa cựa mình day qua, hòa thượng lật đật thụp đầu núp xuống, một chút, lại nghe công chúa ngáy lên, hòa thượng sẽ lén đứng dậy tình coi, thì thấy công chúa nằm ngửa, hai tay để úp ngang bụng, còn trên ngực vung lên, hai chơn tréo lại, và để nguyên y giáp mà ngủ, thật là một gái thiên hương quốc sắc, vóc ngọc mình ngà, gương mặt đẹp như đáo hoa, màu da trắng như bông tuyết.
Hòa thượng đứng núp bên phòng nhắm nhía một hồi, thấy công chúa nằm ngửa mà ngủ rất mê, thì bụng mừng khấp khởi, rồi nghĩ thầm rằng: “Thế cái số mạng con nầy tới rồi, nên nó nằm ngửa đưa ngực ra đây, vậy thi ta cho một mũi dao bén nầy vào ngay trái tim thì xong việc.” nghĩ vậy rồi bước lại, hai tay cầm chặt cây dao giơ lên thẳng cánh, nhắm ngay trên ngực công chúa đâm xuống một cái rất mạnh, (đọc tới đây, khán quan có lẽ cũng động lòng truất tích, chạnh mối thương tâm, mà lo sợ cho công chúa phải bị cái ngọn dao độc thủ của thằng ác tăng nầy mà tuyệt mạng, nhưng mà công chúa không chết đâu, công chúa không tuyệt mạng đâu! Bởi sao mà công chúa không tuyệt mạng?”
Nguyên công chúa trong lúc chiến tranh, có mặt một tấm yểm tâm bằng sắt trước ngực, khi vào chùa tá túc thì công chúa cũng có ý đề phòng, để nguyên y giáp trong mình mà ngủ, vì vậy nên khi lưỡi đao của thằng ác tăng đâm xuống trên ngực một cái, nhờ tấm yểm tâm ấy làm cho ngọn dao trợt ra một bên, rồi ghim ngay xuống ván. Lúc đó công chúa vùng mình trổi dậy, gạt tay hòa thượng một cái rất mạnh, làm cho con dao ấy văng ngay xuống đất, hòa thượng hoảng kinh đâm đầu tông cửa mà chạy.
Công chúa liền tuốt gươm bên lưng ra, rồi nhảy một cái qua khỏi cửa phòng và rượt theo hòa thượng. Hòa thượng chạy tuốt ra phía sau chùa, tính chun vô nhà đóng cửa mà thủ, nhưng công chúa rượt theo rất gấp, hòa thượng mở cửa không kịp, túng thế rồi phải chạy vòng ra ngoài đường núi.
Công chúa lại càng rượt theo gấp lắm và la lên rằng:
– Ớ thằng ác tăng, mi chạy đường trời, cũng không thoát được.
Hòa thượng cứ việc lũi đầu, càn cây lướt bụi chạy thôi bất kể hầm hố chông gay, chạy chừng nào, ngó lại thì thấy công chúa cầm gươm rượt theo chừng nấy. Trong lúc một đàng đương lo chạy chết, một đàng đương trớn rượt theo, bỗng nghe tiếng chi kêu một cái vụt rất mạnh, kế nghe hòa thượng la trời ôi! một tiếng bài hãi, ngó lại thì thấy hòa thượng chơn trở lên trời, đầu dộng xuống đất, tòn ten trên một vòng dây, cách mặt đất chừng bảy tám thước mộc.
Công chúa vừa chạy tới, thì nghe tiếng kêu vang lên rằng:
– Trăm lạy công chúa, ngàn lạy công chúa, xin công chúa lấy lượng nhơn từ, mở lòng đại độ, mà tha thứ cho bần đạo một phen với nào! Tội nghiệp lắm, nay bần đạo đã hồi đầu tỉnh ngộ, mà thống hận tiền phi kia rồi. Cái tội bần đạo ngày nay, dẫu mà công chúa xẻ thịt phân thây, cũng chẳng dám một lời chi phàn nàn thán oán, nhưng mà xin công chúa lấy lòng trời phật mà cho tôi sống sót nơi cõi trần gian nầy, thì bần đạo nguyện mỗi đêm bái phật hành hương, mà cầu chúc cho công chúa được phước thọ vô cương, trường sanh bất tử.
Công chúa liền bước tới xem coi, thấy một cái bẫy treo rất to, đặt bên đường núi, và một vòng dây đã thắt ngang hai giò hòa thượng, treo lên tòn ten trên nửa ngọn cây, thì công chúa thạnh nộ mà hỏi rằng:
– Ớ thằng ác tăng khốn nạn kia. Ta với mi thuở nay, vốn không thù hận, sao nửa đêm mi dám lén tới mà giết ta? Nếu ta chẳng có tấm yểm tâm trên ngực, thì ta sẽ chết về cái lưỡi đao độc thủ của mi đó rồi, vì cớ nào mà mi lại muốn giết ta, mi hãy khai ngay cho mau, bằng mi dấu giếm một lời, thì ta giết mi tức tốc.
– Trăm lạy công chúa, ngàn lạy công chúa, tôi không phải cố giết công chúa, xin công chúa xả từ hoàn sanh cho kẻ bần tăng, công chúa thứ tha một mạng, thì cũng như tu đạo cửu cấp phù đồ, xin công chúa cứu tôi xuống đất, tôi sẽ khai ngay cho công chúa nghe, không dám một lời giả dối, tội nghiệp lắm công chúa cứu tôi một chút, kẻo lộn ruột lộn gan, ắt là phải chết.
Công chúa nói:
– Vậy thì mi khai bây giờ cho ta nghe đi, rồi ta sẽ tha mi, khai đi, khai đi.
Nói rồi công chúa cấp gươm sau lưng, đi qua rảo lại, nơi dưới cái bẫy kia, không thèm thốt một lời chi nữa hết.
Hòa thượng bị mắc hai giò vào bậy, tòn ten trên cao, hễ mình nặng chừng nào thì vòng dây càng riết lại chừng nấy, phần thì ruột gan lộn ngược, chơn cẳng tê cứng như khúc cây, làm cho nặng óc nhức đầu, mặt mày choáng vàng, kế nghe đường dây trên bẫy, tiếng kêu rắc rắc, dường như nó bị cái thây trằn xuống rất nặng nề, mà lần lần muốn đứt.
Hòa thượng rất kinh hãi rồi kêu vang lên rằng:
– Trăm lạy công chúa, ngàn lạy công chúa, xin cứu tôi cho mau, tôi hứa với công chúa, tôi sẽ khai hết cho công chúa nghe.
Công chúa cứ việc rảo lại đi qua nơi dưới cái bẫy, không thèm đáp lại một lời, kế một luồng gió mạnh, thổi tới ồ ồ làm cho cái bẫy ấy vụt lại vung qua, lại nghe đường dây cứ kêu rấm rắc, hòa thượng mất vía điên hồn, và kêu lớn lên rằng:
– Trăm lạy công chúa xin ra tay tế độ mà cứu kẻ bần tăng, kẻo tội nghiệp lắm mà, bần tăng đã hồi đầu tỉnh ngộ, và sám hối cái tội của bần tăng đó rồi, xin công chúa lấy lượng nhơn từ, ra tay tế độ, tế độ.
Công chúa hai mắt ngó lườm lườm sải ấy mà rằng:
– Mi là một đứa ác tăng khốn nạn, mi là một thằng hòa thượng sát nhơn, ta nói cho mi biết, ta cứu là cứu những người hiền lương đức hạnh, những người nghĩa khí trượng phu rủi gặp lúc vận kiểng thời quai, gặp cơn gian nan nghèo ngặt, còn những đứa táng tận lương tâm, ác nhơn thất đức như mi, mi mượn danh thần phật, giả dạng tu hành, hoặc thế vụ dân, mà lường gạt của thập phương bá tánh, ngày nay mi lại đồ mưu thiết kế mà ám hại đến ta, ta cùng mi là kẻ vô cớ vô can, ta cùng mi chẳng phải là kẻ tiền cừu hậu hận, sao mi lại nhẫn tâm nửa đêm lén đến mà giết ta? Nhưng trời phật không để cho ta phải chết về tay tàn ngược của mi, mà lại khiến cho mi phải chịu một hình phạt trở cẳng lên trời, dộng đầu xuống đất như thế, đó là một cái nghiêm hình của trời phật phạt mi, đặng để mà răn loài bạo ngược. Vậy thì vì cớ nào mà mi muốn hại ta? Hãy khai ngay đi, khai ngay cho mau.
Nói rồi công chúa cấp gươm sau lưng, đi vòng theo chung quanh cái bẫy ấy, cách đi đứng rất hòa hưỡn thung dung, xem ra rất xuê xang kiều mị, rồi thúc rằng:
– Mi hãy khai đi, khai đi cho mau.
Lúc bấy giờ gió càng thổi càng mạnh, cái bẩy ấy vụt lại vung qua, nghe kêu kèn kẹt, làm cho hòa thượng xích tới đưa lui, cheo leo trên vòng dây như xích đi bầu, xem rất ghê gớm, còn mối dây cứ việc thắt riết vào chơn, và thỉnh thoảng nghe kêu rấm rắc.
Hòa thượng ba hồn chín vía đều bay rồi kêu vang lên rằng:
– Chết tôi đi! Chết tôi đi trời ôi! Ruột gan lộn hết, chơn cẳng cứng đơ, nếu dây nầy đứt đi, chắc là đầu tôi phải bể.
– Thằng ác tăng, mi không chịu khai à?
– Trăm lạy công chúa tôi khai, tôi khai. Tôi tên là Hồ Duy Nhựt là tướng cũ của Tây Sơn ngày xưa, và là bạn thiết nghĩa với Nguyễn Danh Tập. Khi tôi phụng mạng vua Tây Sơn vận lương về Qui Nhơn nửa đường gặp Châu Văn Tiếp thiết kế đoạt thủ quân lương, và bắt tôi mà cầm ngục, rồi kéo binh thẳng về Saigon. Khi tới Biên Hòa, tôi bèn vượt ngục trốn đi, rồi vào núi nầy ẩn tích mai danh, náu nương kiểng phật, chẳng dè ngày nay gặp công chúa đến và nói rằng bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Danh Tập lấy đồn Bình Hóa, nên công chúa hạ lạc vào đây.
Nói tới đó thì la lên rằng:
– Trời ôi! Chết tôi đi, chết tôi đi! Cả mình đều tê ngắc, máu miệng chảy ra, trăm lạy công chúa, cứu tôi một phen, kẻo chết đi mà.
Công chúa đương đi qua rảo lại, chung quanh bẫy ấy, bỗng nghe hòa thượng khai rằng hắn là tướng của Tây Sơn khi trước, lại là bạn thiết nghĩa với Nguyễn Danh Tập, thì sững sờ liền dừng chơn đứng lại rồi tự nghĩ rằng: “Ờ té ra thằng khốn nạn nầy là tướng Tây Sơn khi trước, và là bạn thiết với Nguyễn Danh Tập bây giờ, hèn chi nó chẳng tính kế giết mình mà lập công cùng giặc,” nghĩ vậy rồi day lại ngó hòa thượng lườm lườm. Và thúc rằng:
– Sao nữa mi khai đi cho mau, rồi ta sẽ cứu, khai đi khai đi.
– Trăm lạy công chúa, khi tôi nghe công chúa nói rằng bị Nguyễn Danh Tập đem binh truy cản, nên công chúa chạy lạc vào chùa, và xin tá túc một đêm, đặng sáng ngày sẽ tìm qua xứ khác, lúc bấy giờ ỷ có Nguyễn Danh Tập là bạn cố giao thiết nghĩa, nên tôi mới cố ý tính giết công chúa, lấy đầu đem nạp cho Nguyễn Danh Tập đặng xin biểu tấu cùng vua Tây Sơn mà chuộc cái tội thất thủ quân lương ngày xưa, đặng phục hồi cựu chức, vì vậy nên nửa đêm tôi cạy cửa vào phòng, quyết giết công chúa, chẳng dè sự ấy không thành, mà bây giờ lại lâm vào đại nạn, vậy trăm lạy công chúa, xin công chúa lấy lòng hà hải, dung thứ cho bần đạo một phen, kẻo tội nghiệp lắm mà, xin công chúa cứu mạng.
Nói tới đây thì một trận gió dữ ào ào thổi tới, làm cho cái bẫy ấy đòng đưa rất mạnh, còn vòng dây thì rắc rắc dãn ra.
Hòa thượng lúc nầy đã táng đởm kinh tâm, rồi kêu thảm thiết mà rằng:
– Công chúa ôi! Mối dây gần đứt, xin công chúa cứu tôi cứu tôi.
Công chúa thấy vậy cũng động lòng muốn kiếm thế cứu xuống, nhưng trận gió ồ ồ thổi tới, làm cho cái bẫy ấy vụt qua rất mạnh, dây ấy đứt ra, kế nghe hòa thượng la lên một tiếng trời ôi! Thì đã rớt thây ngay trên hòn đá. Công chúa nhảy lại muốn đỡ, nhưng hòa thượng đã vập đầu vào đá một cái, xem lại thì đã bể nát khấp sanh, sọ óc văng ra lai láng.