Gia Long tẩu quốc – Hồi thứ mười tám

VIẾNG ĐẾ THIÊN HÀNH LƯƠNG BÁI PHẬT,

GIẾT QUỐC-ANH SOÁI VỊ XƯNG VƯƠNG.

Khi hai tướng Xiêm về tới địa phận Đế Thiên, thì trời vừa xế bóng, Chất-Tri liền hạ lịnh đồn binh lại nghỉ rồi cỡi ngựa đi dạo xem phong cảnh sơn xuyên, khi đi tới đám rừng kia, bỗng thấy một con bạch hầu (khỉ trắng) rất to, lông lá trắng nõn, đương ngồi trên cây hái trái mà ăn.

Chất-Tri liền lấy ná ráp tên, nhắm ngay con bạch hầu, bắn ra một mũi, con bạch hầu thấy Chất-tri dương ná bắn lên thì đưa tay bắt phức mũi tên, và cắn ngang nơi miệng, rồi chuyền nhành nầy qua nhánh kia, chạy coi thấm thoát trên ngọn cây, lẹ như nháy mắt.

Chất-tri thấy vậy lấy làm lạ, bèn giục ngựa rượt theo, chạy quanh lộn trong đường rừng một hồi rất xa, bỗng thấy con bạch hầu trên ngọn cây nhảy xuống một cái, rồi chạy qua hướng tây.

Chất-tri giục ngựa chạy theo, nhưng con bạch hầu đã chạy mất hướng nào, tìm kiếm không đặng. Bỗng ngó qua phía tây thấy một cảnh đền đài rất nguy nga đồ sộ, tợ hồ một chỗ chùa tiên kiểng phật, hay là một chỗ cung điện của đế vương nào đây, thình thình vọi vọi, chim ở bên rừng, điệp điệp trùng trùng, hiện ra trước mắt.

Chất-Tri lấy làm lạ, liền giục ngựa bước tới xem coi, khi bước lên thềm, thấy hai vị phật bằng đá rất to, ngồi hai bên cạnh đền, mỗi vị lớn bằng căn nhà, mặt mày tay chơn chạm trổ rất khéo, trên thềm thì phân làm ba từng, cẩn đá liền liền, cao hơn mấy chục nấc.

Chất-Tri liền xuống ngựa thỉnh thoảng đi lên, khi lên khỏi thềm, bước vào phái trong thì thấy trùng môn họa đống, khéo léo tuyệt vời, tượng phật hình thần, toàn làm bằng đá. Thật là một cảnh rất kỳ quan dị mục, thanh tịnh u nhàn, nhưng nhắm trước xem sau, thật là một cảnh đền viện bỏ hoang, để cho cỏ mọc rêu phong, trải qua chẳng biết bao nhiêu gió táp mưa sa, không rõ đời nào sáng tạo.

Chất-tri xem rồi ngẫm nghĩ, thì nhớ lại, thuở nay có nghe thiên hạ đồn rằng: Tại nước Cao Man có một cảnh cổ tích phật tòa, gọi là Đế Thiên Đế Thích, lòng đã ao ước bấy lâu nhưng chưa thấy được, thế thì ngày nay trời phật khiến cho ta gặp con bạch hầu nó dẫn nẻo đem đường, nên mới được vào đây mà quan chiêm cảnh phật.

Chất-Tri đương trầm tư nghĩ nghị như vậy, bỗng có một sãi già mình mặc áo vàng, như áo cà-sa, chơn đi một đôi thảo hài, lưng vận một cái chăn vàng dài xuống khỏi gối, đầu đội một mũ đen, tướng mạo giống người Xiêm La, hai bên có hai tên sãi nhỏ, một tên bưng lư trầm hương, một tên bưng bình bông sứ, ở bên đền phía tả bước ra, chắp tay cúi đầu, chào tiếp Chất-tri và nói:

 – Tâu quốc vương, bần tăng ở chỗ tịch mịch sơn lâm, náu nương cảnh phật, nay được thấy quốc vương giá lâm vào đây, cũng là một sự hân hạnh cho kẻ bần tăng, vậy bần tăng xin cung nghinh bái yến.

Nói rồi liền mọp xuống đất.

Chất-Tri nghe nói thì ngạc nhiên sững sờ, ngó sãi ấy chăm chỉ và nói rằng:

 – Tôi không phải quốc vương, thế thì thoàn sư nhìn lầm đó chăng? Tôi tên Chất-Tri là tướng của vua Xiêm, đem binh chinh phạt Cao Man về đây, nghe nói chỗ nầy là chỗ thắng cảnh danh sơn nên ghé bước vào đây, đặng dạo xem phong cảnh, chớ tôi chẳng phải quốc vương, thoàn sư chẳng nên tưởng lầm mà xưng hô như vậy.

Sãi ấy mỉm cười và đáp rằng:

 – Tâu quốc vương, số là đêm hôm qua tôi ngủ, thấy một vị phật kim cang bồ tát, đứng trước tòa tháp kêu tôi mà mách bảo rằng: Ngày mai nầy có quốc vương nước Xiêm là Chất-Tri đến đây dạo xem phong cảnh, phải tiếp rước cho tử tế. Khi tôi thức dậy còn nhớ rõ ràng, tôi nghĩ và lấy làm lạ: quốc vương Xiêm sao lại tới đây làm gì, tôi nghĩ rồi bán tín bán nghi, chưa biết lẽ nào là chắc, nên tôi có ý để chờ thử coi, có thật như lời ứng mộng của tôi đã thấy đ1o không, nhưng sự ứng mộng ấy không sai, quả thật ngày nay quốc vương đến đây, và tự xưng đại danh như thế, thì chính là tên của phật bồ tát đã mách bảo cùng tôi rõ ràng, chẳng phải tôi tưởng lộn nhìn lầm, xin quốc vương chớ ngại. Vậy xin quốc cương quá bước vào chùa, đặng xem chơi cho biết.

Chất-Tri lấy làm lạ, rồi tự nghĩ rằng: “Sự ta tính về triều giết trừ quân nghịch đặng lên ngôi quốc vương, song việc ấy chưa làm, mà sao sãi nầy lại xưng hô ta là quốc vương như vậy, thế thì việc nầy chắc có trời phật giúp đỡ cho ta, nên mách bảo sãi nầy nói cho ta biết trước đó chăng?”

Nghĩ vậy rồi vẻ mặt hân hoan, bước theo sãi ấy vào trong, thấy tường cao cửa rộng, thạch trụ lan can, đá liễn chập chồng, liền lạc như tô như vẽ.

Chính giữa đền, có xây một tòa phật đài bốn mặt, một mặt ngó ra phía tiền, một mặt ngó ra phía hậu, một mặt day qua phía tả và một mặt day qua phía hữu, cả thảy bốn mặt đều có để tượng phật hình thần, toàn làm bằng đá và chạm trổ rất khéo.

Bên tả điện có xây một tháp cao lên mấy từng, và bên hữu điện cũng xây một tháp như bên tả điện, mỗi thạch trụ có hình như hình sư tử, kỳ lân, xem rất kỳ quan dị mục.

Thật là:

Một nền cơ xảo đoạt thiên công,

Lầu tháp xây nên đá chập chồng.

Trường trải xuân thu ai biết mấy,

Đền đài vọi vọi tột trên không.

Cái cổ tích đền dài nầy, chẳng biết đời nào sáng tạo, mà lưu truyền lại trong nước Cao Man, ngày nay đặng một chỗ thắng cảnh danh sơn như vầy, thì chẳng biết dường nào là quí báu.

Khi Chất-Tri lần lần ra tới hậu điện, thấy một tòa tháp nguy nga, cách xa chừng vài trăm thước, chung quanh có cây cao tàn rậm, cỏ lạ hoa thơm, chính giữa có thờ một vị phật rất to, và các phật nhỏ chẳng biết bao nhiêu mà kể.

Khi Chất-Tri theo sãi ấy đi gần tới tháp, bỗng thấy trên cây nhảy xuống cái thịch, rồi chạy lóc khóc trước tháp lăng xăng hình như một đứa con nít chừng sáu bảy tuổi, mình mẩy trắng phau từ trên tới dưới, như mặc một cái áo lông chiên; mắt đỏ lóng lánh như hột quả châu, chiếu ra nhấp nháng, răng trắng như hột bầu, mặt mũi hồng hào dường thoa son đỏ.

Kế nghe sãi ấy kêu lên một tiếng:

 – Phi-Phi,

Ngó lại thấy đứa nhỏ ấy chạy tới chắp tay đứng bên sãi già, hai môi chóp chép, mắt ngó tròn vo, kêu tiếng khè khè, coi bộ mặt mày dáo dác. Chất-Tri nhìn coi rõ ràng, là một con bạch hầu mà Chất-Tri đã bắn một mũi tên và rượt theo mé rừng kia khi nãy.

Chất-Tri lấy làm kỳ quái, day lại hỏi sãi ấy rằng:

 – Ủa, con bạch hầu nào đây, phải là con tôi đã rượt nơi mé rừng khi nãy đó không?

 – Tâu quốc vương, nội đây chỉ có một con bạch hầu nầy mà thôi, chớ chẳng có con nào khác nữa, khi nãy nó đi ăn trái cây nơi rừng, bỗng gặp quốc vương bắn nó, nó bèn cắn tên đem về, nên tôi mới biết quốc vương đã tới.

Chất-Tri nghe rồi sững sờ và hỏi rằng:

 – Vậy thì con bạch hầu nầy của thoàn sư nuôi nó phải chăng?

 – Tâu quốc vương, con bạch hầu nầy ở đâu không biết, song mấy năm trước thường thường mỗi đêm tới đứng trước tháp nghe kinh, tôi thấy vậy cho ăn uống và nuôi dưỡng từ ấy đến nay, bây giờ mỗi khi tôi tụng kinh, thì nó biết đốt hương lạy phật, gõ mõ dộng chuông, và biết nghe tiếng người, song không biết nói.

Sãi già ấy nói rồi, day lại ngó con bạch hầu và lấy tay vỗ trên đầu hai ba cái mà bảo rằng:

 – Phi-Phi, mi hãy lại lạy mừng quốc vương đó đi.

Con bạch hầu nghe bảo, liền lại đứng trước Chất-tri mọp đầu xuống đất một cái, rồi nhảy phóc lên cây đại thọ trước tháp mà ngồi, lấy tay quào tai lia lịa nhăn răng trắng xát, và hầm hừ khọt khẹt ít tiếng, dường như nó lẩm bẩm cằn nhằn mà nói rằng:

 – Người ấy là người thù của ta, đã bắn ta một mũi, nếu ta không lẹ tay bắt đặng mũi tên, thì ta đã phèo gan đổ ruột đi rồi, bây giờ lại bắt ta lạy mừng, thật là ức quá! Chớ chi ta không tu tâm luyện tánh, thọ phái qui y, thì ta cắn một miếng cho dập xương mà trả thù mũi tên khi nãy.

Chất-Tri thấy con bạch hầu hình thù tốt đẹp, lông lá trắng tinh, lại biết nghe hiểu tiếng người, và theo ý vâng lời chìu lụy thì nói với sãi già ấy rằng:

 – Tôi thấy con bạch hầu nầy, tôi lấy làm bằng lòng đẹp ý lắm, vậy xin thoàn sư vui lòng để lại tôi nuôi, tôi sẽ hườn tiền công quả lại cho, ước có được chăng?

Sãi ấy đáp rằng:

 – Nếu quốc vương muốn dùng nó, mà bảo vậy thì lẽ nào tôi chẳng vâng lời, nhưng khi quốc vương đem nó về Xiêm, tôi xin cùng quốc vương một điều, là phải cho nó mỗi bữa lạy phật nghe kinh, nếu chẳng vậy thì tôi e nó không chịu ở, vì nó tuy rằng bề ngoài là hình thù thú vật, nhưng mà bề trong là lòng dạ phật thần, chớ chẳng phải như nhiều kẻ ở thế gian nầy, bề ngoài thì diện mạo người ta, mà bề trong là ruột gan cầm thú.

Chất-Tri nghe rồi gặc đầu và nói rằng:

 – Lời của thoàn sư nói đó, tôi nghe có ý vị thâm trầm, và dòm thấy tình đời đích xác. Vậy tôi xin hứa cùng thoàn sư rằng: tôi sẽ y lời thoàn sư dặn bảo.

Nói rồi Chất-Tri xin vào tháp hành lương bái phật.

Khi Chất-Tri vào tháp đứng trước phật đài hành hương thì thầm thỉ khấn rằng:

 – Tôi là Chất-tri đem binh về triều, quyết trừ đảng nghịch, xin phật trời phò hộ cho tôi được thắng trận thành công, và được lên ngôi quốc vương, cầm quyền chánh trị, thì tôi nhứt nguyện tu tạo các chùa trong nước Xiêm, và sùng bái theo đạo từ bi, mà qui y thọ phái, và tôi sẽ tu bổ tháp nầy lại cho tử tế trang hoàng.

Khấn rồi lui ra nói với sãi ấy rằng:

 – Tôi rất cám ơn thoàn sư có lòng hoan hỉ mà để con bạch hầu nầy lại cho tôi, vậy tôi xin hứa với thoàn sư rằng: khi tôi về tới Xiêm lo lắng công việc thành rồi, tôi sẽ cho người đến đây hườn tiền công quả cho lão sư, và tu bổ tháp nầy tử tế.

Nói rồi liền từ giã sãi già và dắt con bạch hầu về trại.

Khi Chất-Tri ra khỏi Đế Thiên một đỗi, bỗng thấy một đội quân mã rần rần chạy tới, người cỡi ngựa đi đầu là Sô-Xi, thấy anh là Chất-Tri thì gò cương ngừng ngựa và hỏi rằng:

 – Anh đi đâu mà hồi xế đến giờ, làm cho em kiếm tìm hết sức như vậy?

Chất-Tri bèn thuật công chuyện từ khi gặp con bạch hầu nơi mé rừng, bắn nó thế nào, đến lúc vào xem cảnh phật và sự phật mách bảo cho sãi già tiếp rước thế nào, nhứt nhứt đều thuật lại cặn kẽ cho Sô-Xi nghe hết.

Sô-Xi nghe thì cho là một sự rất ly kỳ, rồi ngó lại thấy con bạch hầu đứng một bên anh bèn hỏi rằng:

 – Con nầy phải là con bạch hầu anh nói đó chăng?

 – Phải, con bạch hầu nầy ở trong chùa tháp với lão sãi già, nó biết nghe kinh lạy phật, và biết nghe hiểu tiếng người, qua thấy nó có tánh khôn ngoan, lại biết vâng lời dạy bảo, nên qua xin sãi ấy đem nó về đây, thật là một con bạch hầu rất khôn, trên đời ít có.

Nói rồi hai anh em hớn hở vui mừng, dắt nhau trở về dinh trại.

Bữa nọ Chất-Tri đương ngồi trong dinh, bỗng có quan Chưởng ấn bên Xiêm qua báo tin rằng: Tại Cổ-Lạc-Thành có một tướng Xiêm tên là Ph-Nha-Oan-Sãng dấy loạn, đem binh về triều bắt vua Trịnh-Quấc-Anh hạ ngục.

Chất-Tri nghe tin ấy lấy làm lạ, liền hỏi quan Chưởng ấn rằng:

 – Cớ sao Phi-Nha-Oan-Sãng lại cử binh về triều bắt vua mà hạ ngục, ngươi có rõ chăng?

 – Bẩm quan Tổng binh, nguyên em của Phi-Nha-Oan-Sãng dấy loạn, vua Trịnh-Quấc-Anh sai Phi-Nha-Oan-Sãng đem binh ra dẹp, chẳng dè anh em chúng nó đồng tâm hiệp ý cùng nhau, rồi kéo binh về triều bắt vua mà hạ ngục.

Chất-Tri nghe rồi liền bảo quan Chưởng ấn về trước, rồi truyền lịnh cho chư tướng tức tốc kéo binh về Xiêm.

Khi về gần tới thành đô Vọng-Các, truyền lịnh hạ trại đình binh, và đòi em là Sô-Xi cùng chư tướng hội nghị mà nói rằng:

 – Nay Phi-Nha-Oan-Sãng bắt vua Trịnh-quấc-Anh mà hạ ngục, là ý muốn đoạt nước soán ngôi, nhưng mà sợ anh em ta, nên chúng nó để chờ ta về mà dọ thăm tình ý, vậy ta nhơn dịp nầy cho người lén vào ngục thất, giết chết vua Trịnh-Quấc-Anh, rồi đổ tội cho anh em Phi-Nha-Oan-Sãng, mà tuyên bố cho cả thảy thần dân trong nước biết rằng: Anh em Phi-Nha-Oan-Sãng đồ mưu toán kế, giết vua mà đoạt ngôi; chừng đó ta lấy cớ ấy hưng binh vấn tội, và bắt anh em chúng nó mà giết đi, thì tự nhiên thần dân trong nước đều bằng lòng, rồi ngôi quốc vương sẽ về tay ta, chớ ai dám ra mà tranh dành cùng ta được, như vậy ta đã khỏi mang tiếng giết vua, mà lại được danh trừ thù dẹp loạn.

Sô-Xi và các tướng nghe Chất-Tri bàn nghị như vậy, và cả thảy chư tướng đều khen mà nói rằng:

 – Thật Tổng binh đồ mưu thiết kế, như vậy rất hay, chúng tôi đều hết lòng khâm phục.

Bữa sau, Chất-Tri kêu hai tướng tâm phúc vào dinh và bảo rằng:

 – Hai ngươi đêm nay phải tới ngục đường giết vua Trịnh-Quấc-Anh cho đặng. Việc nầy là một việc bí mật ta phú thác cho hai ngươi, vậy hai ngươi phải sắp đặt mưu thế mà thi hành, và cẩn thận tử tế, chẳng nên sơ thất, mà bại lộ cơ quan của ta, thì hai ngươi phải mang trọng tội.

Hai tướng vâng lịnh trở về, sắp đặt công việc, rồi nửa đêm chừng lối trời khuya canh tịnh, hai tướng liền dắt nhau đồng đi. Khi gần tới ngục đường bèn nhảy qua tường thành, rồi dở ngói cưa rui, lén vào trong ngục.

Mấy hôm nay Trịnh-Quấc-Anh ở trong ngục, bị lo buồn sợ hãi, nên không ngủ đặng, bữa ấy mệt mỏi tâm thần, mới vừa nhắm mắt thì đã mê man bất tỉnh.

Hai tướng ấy thấy vua đã ngủ mê, liền xốc lại bên giường, kê đao vào cổ, rồi một đứa sấn xuống một dao, làm cho vua Trịnh-Quấc-Anh đương lúc mơ màng gối mộng, năm canh chưa ngớt giọt sầu bim bỗng chút vơ vởn hồn mê, một phút hóa ra người tử biệt.

Khi Chất-Tri sai hai tướng nầy giết vua Trịnh-Quấc-Anh chết rồi, liền kéo binh mã vào thành, đánh bắt hai anh em Phi-Nha-Oan-Sãng. Va đem ra pháp trường xử tử, rồi truyền lịnh làm tờ bố cáo khắp cả thành đô cho thần dân trong nước hay. Nói rằng: “Trịnh-Quấc-Anh nơi ngục, đặng soán quốc đoạt ngôi, nên ta ‘phải đem binh về, diệt trừ đảng nghịch’.”

Lập tờ bố cáo xong rồi, liền vào ngục cứu vợ con gia quyến ra, đó rồi Chất-Tri lên ngôi quốc vương, phong em là Sô-Xi làm vua thứ nhì, và cháu là Ma-Lặc làm vua thứ ba.

Còn Chất-Tri thì làm vua thứ nhứt, tự xưng là Phật Vương, là vua của đạp phật, rồi lập một kiểng chùa tại thành đô rất nguy nga tráng lệ, và rước các thoàn sư người nào đạo cao đức trọng, để ở nơi chùa, đặng tới lui hành hương bái phật cho dễ. Và truyền cho các tỉnh phải tu bổ các chùa chiền tử tế. Còn nhơn dân từ nhỏ chí lớn, ai ai cũng phải dùng bái tín ngưỡng đạo phật luôn luôn.

Mỗi khi Phật Vương là Chất-Tri đi hành hương nơi chùa, thì đều dắt con bạch hầu theo nghe kinh bái phật, như lời của lão sư ở Đế Thiên dặn bảo. Và sai quan đem tiền bạc lễ vật qua Đế Thiên cúng cấp, như lời đã tự nguyện khẩn cầu.

Đây nói lại khi Chất-Tri dẹp yên đảng nghịch, lên ngôi quốc vương rồi, sai sứ qua báo tin mừng cho Nguyễn Hữu Thoại hay, và sai đem lễ vật cảm tạ.

Nguyễn Hữu Thoại được tin, liền rút binh trở về Saigon, rồi đem các sự tình giao hòa cùng Xiêm, tâu lại cho đức Nguyễn vương rõ.

Nguyễn vương cũng bằng lòng đẹp ý, rồi sai sứ đem lễ vật qua Xiêm mà tặng mừng cho Chất-tri lên ngôi tân quân, mà tỏ rằng hai nước đã kết tình hòa hảo.

error: Content is protected !!