Gia Long tẩu quốc – Hồi thứ ba

Giết tướng giặc đặng bức âm thơ.

Hứa nhơn duyên đền ơn cứu nạn.

Lưỡi kiếm anh hùng, răn người bạo ngược,

Non vu một giấc, giống ma tình hãm hại khách mê hồn.

Biển nghiệt ngàn trùng, con sóng sắc nhận chìm thuyền đãng tử.


Tướng giặc liền thối lui hai ba bước, và trợn mắt nhìn sững người ấy và hỏi rằng:

– Ngươi là ai, mà dám can dự vào đây, hãy nói cho ta biết hử?

Người ấy nghiêm sắc mặt, và nói cách hằng chấn rằng:

 – Ta là người thay mặt cho thần pháp luật, đến đây mà xử cái tội ác dâm tàn bạo của ngươi chớ ai, ngươi làm một chức quan trưởng trong việc binh gia, mà chẳng bảo hộ lương dân, giữ lòng công lý, lại đem thói tàn bạo dâm ô, mà hãm hiếp con nhà lương thiện, ngươi lại đồ mưu toán kế, vu cáo cho cha người gái nầy là ông Cử Khôi, ngày nay phải bị giam tra nơi khám đường, đặng ngươi đến đây mà làm sự cưỡng dâm hãm hiếp, lại còn mong lòng tàn nhẫn, huơi đao muốn giết người gái nầy, thật là ngoài mặt thì ngươi mang một cái lốt thể diện viên quan, mà trong ruột ngươi lại nuôi một tấm lòng lang dạ thú; cái cơ quan độc ác của ngươi, nay đã bại lộ ra rồi, ngươi không còn chối từ trốn tránh đâu đặng.

Nói rồi phóng cây đao xuống đất một cái, lút hơn ba tấc, và nói tiếp rằng:

– Cây đao khốn nạn nầy, cầm nó càng thêm nhơ tay, ta trả lại cho ngươi đó.

Tướng giặc thấy cây đao phóng xuống trước mặt, hoảng hồn nhảy trớ qua một bên,và trợn mắt lườm lườm, ngó người ấy không thèm chớp mi.

Cô Ngọc Sương thấy vậy lấy làm lạ không biết người ấy là ai, rồi cũng đứng trân ngó sững.

Tướng giặc nầy tức thì thừa dịp, liền nhảy lại rút cây đao lên, rồi day qua đâm đùa người ấy.

Người ấy né qua một cái, thì đã rút cây đoản đao bên lưng ra, rồi đánh với tướng giặc một cách rất dữ dội, kẻ đâm ngang, người chém ngược, khi nhảy lại, lúc tràn qua, làm cho bàn ghế đều ngã lăn, tiếng gươm đụng nhau, nghe kêu rang rảng.

Tướng giặc yếu thế đánh không lại, vừa muốn lui ra, thì một mũi đao đã đâm ngang vào ngực.

Tướng giặc nầy la lên một tiếng, rồi ríu ríu ngã xuống cái thịch, cây đao của người ấy cũng còn để găm trên ngực tướng giặc, chẳng thèm rút ra.

Tướng giặc nằm dưới đất, hai tay ôm lấy ngực một hồi, rồi ngó người ấy cười lên một tiếng lạt lẽo, vừa thở hào hển vừa nói ngập ngừng rằng:

 – Ta, ta chẳng ngờ ngày nay ta phải chết, chết về tay ngươi, nhưng ta thú thật cùng ngươi, ta không hề than van oán trách ngươi, mà cũng chẳng trách ai hết cả. Vì ta tự biết lấy ta, đã làm nhiều điều tội ác, thuở nay ta hại người giết chúng chẳng biết bao nhiêu, làm cho trời giận đất hờn, thế thì ngày nay trời muốn phạt ta, nên khiến cho gặp ngươi ấy là một sự nhãn tiền quả báo. Vậy ngươi hãy làm ơn lại đây đâm cho ta một mũi đao nữa đo, đặng thoát sanh giùm cho ta khỏi sự đau đớn khổ sở;.

Nói rồi lấy tay chỉ trên ngực và bảo:

 – Ngươi hãy lại đây, lại đây đâm thêm cho ta một đao, kẻo tội nghiệp lắm nầy.

Người kia nghe nói thì gặc đầu và bước tới hỏi rằng:

 – À, ngày nay người đã hồi tâm tỉnh ngọ cái tội ác của người rồi sao? Ngươi có vu cáo cho ông Cử khôi là cha người gái nầy như lời ta đã nói trước đó không?

 – Ừ, có, có, y như lời ngươi nói đó, ta không chối đâu, ta khen cho ngươi biết đặng sự bí mật của ta, cũng là gỏi lắm.

 – Ngươi có viết thơ bảo quan phủ giam tra ông thân cô gái nầy không?

 – Có, chính là ta viết thơ ấy chớ ai. Vậy ngươi hãy đâm thêm cho ta một đao nữa đi, kẻo đau đớn khổ sở ta chịu không nổi.

Nói rồi ôm ngực lăn qua trở lại, xem rất thảm khổ là dường nào!

Người ấy thấy vậy liền bước lại rút lưỡi đao ra, tức thì trong ngực tướng giặc phun lên một vòi máu đỏ điều, rồi chảy ra lai láng, thì thấy sắc mặt tướng giặc liền đổi ra xanh lét như chàm, còn mắt thì nhướng lên nhướng xuống một hồi, dường như còn tiếc cái cảnh trần hoàn nầy mà ráng ngó lại một lần sau hết, và láp giáp trong miệng điều chi ít tiếng, rồi mới chịu thiêm thiếp một giấc im lìm, và ríu ríu hồn qui địa phủ.

Thi điếu Bùi Khắc Phú rằng:

Cậy quyền ỷ thế bực cao sang,

Thấy sắc tham dâm muốn bốc càn,

Liệt nữ đã toan giồi tiết rạng,

Cường đồ khó nổi trổ mưu gian,

Ba sinh hết kể tình hi vọng

Một kiếp thôi rồi thói ngược ngang,

Nước giận trào gan người nghĩa sĩ

Ra tay giục tắt lửa hung tàn.

Trong khi tướng giặc nầy là Bùi Khắc Phú đương cơn hấp hối, bỗng thấy ba người ở trước khách đường, rần rần chạy vô, và áp lại chém bừa người giết tướng giặc.

Người nầy liền rút đao cự lại, chẳng đầy một phút, thì đã giết luôn ba tên ấy chết hết.

Bà người nầy là người thơ ký với hai tên quân nhơn của tướng giặc, trong khi đương ở ngoài trước cửa ngõ. Xảy nghe lụi đụi nơi phía nhà sau, bèn lật đật chạy vô, thấy chủ tướng bị giết, thì áp lại chém đùa, chẳng dè cả ba cũng đều bị một tay người ấy mà táng mạng.

Người ấy liền bước lại lục soát áo quần, và trong mình tướng giặc, lấy đặng một phong thơ, thì nghĩ rằng: “Thơ nầy chắc là thơ mật sự chi đây, tướng giặc không để ở nhà, mà bỏ theo trong túi,” tức thì dỡ thơ ra xem thấy trong thơ có đóng một dấu ấn soái đỏ lòm, thì biết một cái thơ quan hệ về việc binh tình của giặc.

Trong thơ ấy nói như vầy:

“Bổn soái gởi mật thơ nầy cho quan Đốc binh rõ, nghe rằng bọn Nguyễn Ánh còn đương tàn tụ ở tại Cần Thơ, vậy Đốc binh phải lập tức đem binh đến đó mà tập nã;

Ta còn đương dẹp đảng nghịch của chúng nó ở Vĩnh Long, nội ba ngày nữa, ta sẽ qua tới Cần Thơ, đặng hiệp binh cùng ngươi mà diệt từ bọn Nguyễn Ánh cho tuyệt.

TÂY SƠN ĐẠI NGUYÊN SOÁI

Ký tên: NGUYỄN HUỆ.”

Người ấy đọc thơ rồi, sắc mặt có vẻ kinh nghi, và tự nghĩ rằng: “Sự nầy là sự rất quan hệ, ta phải thông tin lập tức cho Đức Nguyễn Ánh hay, mà cũng may cho ta, giết đặng tướng nầy rồi, thì cũng bớt đi một mũi quân giặc,” nghĩ rồi liền bỏ thơ vào túi, kế thấy cô Ngọc Sương lần lần bước lại và nói với người ấy rằng:

 – Bẩm quới quan, tôi không biết quới quan ở đâu đến đây thình lình giết tướng giặc nầy mà cứu tôi trong cơn nguy cấp, thật tôi cảm đội ơn dày, xem dường tái tạo. Vậy xin quới quan vui lòng tỏ cho tôi biết tôn tánh đại danh, ngỏ hầu ngày sau, tôi lo ơn đền nghĩa trả.

Người ấy nghe hỏi mấy lời thì vui sắc mặt mà đáp rằng:

 – Cô nương muốn biết danh tánh của kẻ hạ sĩ nầy, xin cô làm ơn cho tôi mượn viết mực lại đây.

Cô Ngọc Sương nghe nói liền vội vã lấy việt mực đem lại.

Người ấy bèn lấy bút nghiên, rồi lại nơi vách biết ba hàng chữ lớn như vầy:

“Ta tên Châu Văn Tiếp, là tướng bộ hạ của Đức Nguyễn Ánh, và chính là người giết bọn Bùi Khắc Phú mà cứu cha con Cử Khôi bị chúng nó hãm hại.”

Châu Văn Tiếp viết mấy hàng chữ nầy, là có ý sợ quan viên tra khảo án mạng, mà làm liên lụy đến người vô can, nên xưng tên mình ra cho khỏi xóm làng mang hại.

Cô Ngọc Sương thấy người ấy xưng tên là CHâu Văn Tiếp thì ngạc nhiên và nói:

 – Bấy lâu nay vẫn nghe danh quan nhơn là người nghĩa khí trượng phu, nay mới thấy tôn nhan, thật tôi rất hết lòng cảm phục, vậy nay quan nhơn đã giết tướng giặc nầy mà cứu tôi, nhưng cha tôi còn mắc nơi chốn khám đường, nếu chúng nó hay ra, thời e cho cha tôi không thế gì được toàn tánh mạng, vậy xin quan nhơn làm thế nào mà giải thoát cho cha tôi, thì công ơn của quan nhơn cứu tử hoàn sanh, cha con tôi sẽ kết cỏ ngậm vành, mà ghi vào lòng, tạc vào dạ.

Châu Văn Tiếp nghe cô Ngọc Sương nói vậy liền đáp lại cách tề tỉnh rằng:

 – Xin cô chớ ngại, ông thân cô một chút nữa sẽ về tới đây, song tôi khuyên cô một điều là cô phải sắm sửa đồ hành trang, và thâu góp bạc tiền, rồi qua xứ khác mà đào nạn thì mới được.

Trong lúc Châu Văn Tiếp đương đứng tại nhà nầy nói chuyện với cô Ngọc Sương, thì đã có hai tên bộ hạ của người là D(ội Tam và Bếp Lượng đến dinh quan Phủ, nhảy qua tường thành, rồi sẽ lén vào tới khám đường, ngó quanh bốn phía đều vắng vẻ.

Đội Tam bước lại nói với Bếp Lượng rằng:

 – Chú mầy phải mở dưới nầy coi chừng mấy tên quân canh, để tôi nhảy lên nóc nhà đặng coi ông Cử Khôi ở chỗ nào rồi chúng ta sẽ tính.

Bếp Lượng nói:

 – Thôi! Anh để tôi nhảy lên nóc nhà cho, anh đứng dưới coi chừng, anh không cần gì nhọc sức.

Đội Tam nói:

 – Không được đâu, chú mầy cái thây to quá, nhảy lên thì chắc bể ngói gãy rui, xiêu nhà sập khám, để tôi nhảy lên mới được, chú mầy cứ việc con mắt cho lanh, coi chừng mấy thằng quân canh, nếu nó thấy thì chúng ta hư sự.

 – Ừ được, anh cứ việc lên đi,

Nói rồi Bếp Lượng nhảy lại đứng dựa vách khám, núp theo bóng tối mấy cây, dòm ra phía trước vọng đài và coi chừng bốn phía, còn Đội Tam lên nóc khám đường, lần lần dỡ ngói dòm xuống, đặng kiếm ông Cử Khôi, song trong khám tối thui, không thấy ai hết.

Đội Tam liền lần ra mái hiên, bỗng nghe tiếng ho trong khám, bèn thò đầu dòm xuống, thấy mấy lỗ để thông khí trên vách tường, tức thì móc chơn trên cây đà ngang dưới mái hiên, tòn ten như một con dơi quạ, rồi thòng đầu xuống, ngoảnh cổ lên, và lấy một cái đèn rọi trong túi áo ra, đút vào lỗ vách tường mà rọi ngay vô khám.

Ông Cử Khôi đương ngồi trên sạp ván, tư tưởng việc nhà, không biết con ông là Ngọc Sương có hay ông bị giam nơi khám nầy chăng? Và không biết ở nhà có việc gì xảy đến nữa chăng? Ông những mảng thầm suy trộm nghĩ như vậy mà khắc lục canh tàn, không hề nhắm mắt.

Bỗng thấy một yến sáng dọi vào, không biết đèn gì, ông bèn lẳng lặng để coi, kế thấy đèn ấy nháng qua thoảng lại một cái rồi tắt, ông nghĩ thầm rằng: “Không lẽ quân trộm đến đây rình mò làm gì? Cũng không lẽ ai tới thăm mình trong lúc canh khuya đêm vắng, lạ nầy, hay là mấy thằng quân canh sợ mình vượt ngục trốn đi, nên rọi đèn mà coi chừng cho biết, ông nghĩ vậy rồi ngồi lặng làm thinh.

Tên Đội Tam ở trên mái nhà rọi đèn thấy ông, liền co giò nhảy ngay xuống đất nhẹ nhàng rồi lại nói nhỏ với tên Bếp Lương rằng:

 – Ông Cử Khôi ở trong căn khám nầy, nếu ta dỡ ngói cưa rui mà đem ông ra, thế thì khó lắm, vậy chúng ta phải đem ông ra ngả cửa khám mới được.

Bếp Lượng lấy tay khoác khoác và nói rằng:

 – Ngả cửa khám thì bị khóa chắc lắm, và sợ mấy tên quân canh đi tuần, dòm vô ngó thấy, chi bằng ta cưa rui đem ông ra mái sau, rồi thòng ông xuống đất, thì không ai thấy đặng.

Đội Tam lắc đầu và nói rằng:

 – Không được, không được, vậy e bất tiện cho ông lắm, thôi chú cứ đứng núp ngoài bụi coi chừng, để tôi bẻ khóa cửa đem ông ra, rồi leo ngang vách thành phía sau mà xuống thì tiện việc.

Nói rồi day lại dặn Bếp lượng rằng:

 – Chú mầy cứ việc coi chừng, cho lành, hễ thấy ai thì lấy khẩu hiệu riêng làm gà gáy cho tôi biết.

Bếp Lượng nói:

 – Tôi làm gà gáy không được, thôi để tôi ra khẩu hiệu làm chó sủa thay là mèo ngao được không?

Đội Tam nói:

 – Chú mầy làm chó sủa không được đâu, vì tiếng chú mầy ồ ề lắm, sủa đây chắc người ta giựt mình mà thức dậy, ắt là hư việc không xong, thôi chú mầy cứ làm mèo ngao thì tiện hơn.

Bếp Lương gặc đầu rồi lại núp dựa bụi cây, còn đội Tam lén lại cửa khám đặng mằn mò bẻ khóa, bỗng nghe tiếng mèo ngao ngao ngoài bụi.

Đội Tam lật đật nhảy ra, chạy lại lủi vào bụi rậm, kế thấy một tên quân canh ngoài trước lưỡng thưỡng đi vô, vừa đi vừa đánh trống lung tung, lại thấy một tên đi sau nhịp sanh nghe kêu cắc cắc rồi cả hai đều đi vòng qua phía kia, khi hai tên quân canh đi khỏi rồi, đội Tam liền bước vô mằn mò bẻ khóa.

Lúc bấy giờ ông Cử Khôi đương ngồi trong khám, sắc mặt thảm buồn, và mắt ngó chăm chăm ra cửa, một lát ông lại bắt đầu, một lát ông lại chắt lưỡi, ta nha thiết sĩ, cứ lẩm bẩm than trách số mạng vận thời, chẳng biết họa đâu bay tới thình lình, đến tuổi nầy mà còn phải chịu lao từ khổ sở, ông đương cằn nhằn than thỉ, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng rọc rạch như tiếng ống khóa, một lát nghe kêu cái rắc, kế cánh cửa mở ra, thấy một người mặt đồ đen, từ đầu chí chơn, chẫm hẫm bước vô, bên lưng có dắt một cây đoản đao, xem rất dị hình dị dạng.

Ông Cử Khôi ngó sững mà chẳng biết ai, kế người ấy bước lại kê miệng vào tai, nói nhỏ với ông rằng:

 – Chúng tôi đến đây cứu ông, xin ông hãy theo tôi cho mau đặng thoát ra khỏi ngục.

Ông CỬ Khôi nghe nói thì hỏi rằng:

 – Cậu ở đâu đến đây mà cứu tôi, xin nói cho lão rõ.

 – Chúng tôi là kẻ bộ hạ của Châu Văn Tiếp là tướng của Đức Nguyễn Ánh.

Ông nghe liền gặc đầu và nói:

 – Tôi hiểu, tôi hiểu,

Nói rồi liền theo người ấy đi ra.

Lúc bấy giờ mấy tên quân canh, đều ở canh giữ trước dinh, còn phía sau, thì quân lính ngủ hết.

Hai người bèn sẽ lén dắt ông Cử Khôi ẩn theo bóng cây đi ra tường sau, rồi đỡ ông lên mặt tường leo xuống.

Bỗng nghe trống trên vọng đài đã điểm ba dúi và nhịp sanh đánh nghe rắc rắc, thì biết đã tới canh ba rồi, lại thấy mấy tên quân canh, ở trước vọng đài, rảo lại đi qua, tuần phòng nghiêm nhặt.

Khi hai tên kia, đem ông Cử Khôi ra khỏi tường thành, rồi liền dắt ông đi thẳng về nhà một nước.

Cô Ngọc Sương thấy cha về nửa mừng nửa sợ, và chạy lại rưng rưng nước mắt mà nói rằng:

 – Cha ôi! Con tưởng cha con mình đã lâm đại hại, mà phải tử biệt sanh ly nhau rồi, chẳng dè may nhờ có quan nhơn đây, cứu khổn phò nguy cho mình, ngày nay cha con mới được trùng phùng hội diện, mà tại cớ sao cha bị giam, cha có rõ chăng?

Ông Cử Khôi nghe cô hỏi thì đáp rằng:

 – Quan Phủ nói người ta cáo cha theo phe Đức Nguyễn Ánh, nên quan Phủ phải bắt mà giam tra.

 – Cha ôi! Thằng khốn nạn là Bùi Khắc Phú nó vu cáo cha đó chớ ai, đặng nó đến đây mà hãm hiếp con, may không thì con cũng chết về tay nó.

Nói rồi cô lại kể các công chuyện ở nhà cô bị tướng giặc là Bùi Khắc Phú, hãm hiếp thế nào, và Châu Văn Tiếp giết chết tướng giặc mà cứu cô và sai người đến khám đường cứu ông thế nào, đầu đuôi đều thuật lại một hồi cho ông nghe cặn kẽ.

Ông liền bước lại chào Châu Văn Tiếp cách cung kính, và tỏ nhiều lời cảm ơn rất thiết tha trân trọng,

Châu Văn Tiếp cũng đáp lễ lại, rồi nói với ông rằng:

 – Tướng giặc Bùi Khắc Phú nay tuy chết rồi, song le vi cánh nó còn đông, thế lực nó còn mạnh, vậy xin bác và cô nương phải mau mau kiếm nơi khác mà lánh đi, thì mới khỏi bọn nó gây thù trả hận.

Ông Cử Khôi nghe rồi liền gặc đầu và nói rằng:

 – Sự ấy xin để mặc tôi toan lo, quan nhơn chớ ngại, còn sự quan nhơn cứu cha con tôi, khỏi tay quân hung gian tàn ngược ấy, thật tôi không biết lấy chi mà đền ơn đáp nghĩa cho xứng đáng, tôi chỉ mong rằng nếu quan nhơn chẳng chê cha con tôi là bực thôn hương dân giã, côi cút thật thà, thì tôi xin đưa con gái tôi cho quan nhơn, để hầu sửa trắp nưng khăn, gọi là đền chút công ơn tri ngộ, ước có được chăng?

Châu Văn Tiếp nghe ông nói thì sững sờ rồi hỏi rằng:

 – Thưa bác, trong khi tôi núp nơi cánh cửa, tôi có nghe cô nương nói với tướng giặc rằng: cô nương là người đã có chồng rồi, sao bây giờ bác lại tính hứa hôn cùng tôi, như vậy chẳng là trái với lời cô nương đã nói đó chăng?

Ông Cử Khôi nghe hỏi thì mỉm cười và đáp rằng:

 – Số là quan nhơn chưa rõ, để tôi nói lại cho quan nhơn nghe, bởi hôm nọ tướng giặc Bùi Khắc Phú mượn mai nhơn đến nói con tôi, tôi biết nó là đứa mọt nước sâu dân, tham ô tàn bạo, nên tôi phải kiếm cớ mà chối từ, kỳ thật tôi chưa hứa hôn con tôi cho nơi nào hết cả, chỉ có ngày nay hứa gả cho quan hơn đó thôi.

Châu Văn Tiếp nghe ông nói vậy, thì trầm tư nghĩ nghị một chút rồi đáp rằng:

 – Tôi rất cảm ơn bác có lòng hạ cố, mà tính cho cô nương gá cuộc lương duyên cùng tôi, nhưng tôi nghĩ cho phận tôi ngày nay bốn biển không nhà, bèo mây trôi nổi, chưa biết đâu là quê quán gia cang, vì chúa tôi là D(ức Nguyễn Anh còn đương lưu lạc phong trần, thế thì tôi phải ra sức tế khổn phò nguy, đặng lập chút công lao mà đền bồi nợ nước, còn như phận cô nương đây, chẳng may gặp cơn gia biến, bác lại chỉ có một mình cô là gái, thì để cho cô sớm hôm theo bác, giúp đỡ tay chơn, gọi rằng đền đáp ơn nhà trong cơn hoạn nạn. Nếu nay tôi kết duyên cùng cô nương, thì cô chẳng lẽ bỏ cha mà theo chồng, còn tôi chẳng lẽ bỏ vua mà theo vợ, nếu cô nương đeo đuổi theo chồng, thì thành ra thất hiếu với cha, còn tôi bận bịu theo vợ, lại phải thất trung cùng chúa, thế thì cũng một điều rất khó cho tôi và cho cô nương lắm đa, vậy xin lỗi cùng bác sự ấy tôi chưa dám nhứt định lẽ nào bây giờ, xin bác để cho tôi lo việc nước yên rồi, ngày sau sẽ tính tới việc nhà, cũng chẳng chi rằng muộn.

Ông Cử Khôi nghe Châu Văn Tiếp bày tỏ mấy lời rất đường đường chánh đáng, thì gặc đầu mà đáp rằng:

 – Quan nhơn có lòng ưu quân ái quốc như vậy, tôi rất yêu mến kỉnh vì, nên tôi muốn tỏ chút tình nghĩa cùng quan nhơn, đặng mà đền ơn cứu nạn, song việc ấy chẳng phải tôi muốn tính gấp bây giờ đây đâu, mà quan nhơn phòng ngại. Vậy nếu quan nhơn bằng lòng thương tưởng đến con tôi, thì xin hứa chắc một lời, cho tôi đặng thỏa chút tình, còn việc hôn phối thì ngày sau sẽ tính cũng được.

Châu Văn Tiếp thấy ông có lòng quyến luyến, thì cũng đem dạ kính vì, liền chịu hứa cuộc nhơn duyên với con ông, nhưng để việc nước yên rồi, ngày sau sẽ vầy duyên cang lệ, đó rồi day lại thưa với ông rằng:

 – Thưa bác, nay tôi có việc binh tình cẩn cấp, phải đi thông báo cho chúa tôi là Đức Nguyễn Ánh được hay, vậy tôi xin từ giả bác và cô nương, cầu xin bác và cô nương quới thể bình an, đặng mau mau tìm qua xứ khác mà thê ngụ.

Nói rồi kêu hai tên bộ hạ bảo về thắng ba con ngựa đem lại cho mau.

Hai tên bộ hạ lãnh mạng ra đi, chẳng đầy một lát, đã thấy ngựa tới trước nhà, cô Ngọc Sương lúc bấy giờ cũng bước ra trước ngõ, đưa đi và tiễn biệt nhiều lời rất trân trọng, mà nói rằng:

 – Trước khi quan nhơn lên ngựa cầm cương, bôn ba việc nước, tôi chẳng có chi đưa tặng quan nhơn, tôi chỉ có khối vàng đá trong trái tim tôi đây, để cống hiến cho quan nhơn gọi là chút lòng kỷ niệm của gái nầy, đem ra mà tiễn biệt nhau trong cơn nguy cấp. Cái phận sự của quan nhơn đứng một chí khí nam nhi, gặp buổi nước ngặt nhà nghiêng, thì phải ra đỡ vạt nưng thành, phò nguy tế khổn, tôi chẳng hề dám lấy cái thói nhi nữ thường tình, mà cản trở anh hùng trên đường nghĩa vụ. Vậy tôi chỉ câu xin cho quan nhơn được thân cường, thể kiện, mà xông pha giữa chốn mũi đạn đường tên, đó là một chỗ danh dự của các đứng anh hùng, ngày sau sẽ được lưu truyền lịch sử. Ấy là một phận sự quan nhơn đối với nước nhà trong cơn bác loạn. Còn phận tôi thì chỉ xin quan nhơn chớ quên rằng, hôm nay là ngày tôi đã đem cái thân phận của đứa gái đào thơ liễu yếu nầy, mà ký thác cho quan nhơn, và cắt một khúc ruột chung tình nầy mà trao cho quan nhơn giữ lấy, tôi chỉ gìn một tấm lòng trực tiết cùng quan nhơn trong khi vắng vẻ cô phòng, xiết bao là ngày trông tháng đợi; mong rằng: ngày kia sẽ được nước trị nhà yên, cho vợ đặng gặp chồng mà phối hiệp lương duyên, ngỏ cùng nhau chung hưởng sự thái bình hạnh phước. Ấy là một chút tình hy vọng của gái nầy xin đối phó cùng quan nhơn, và một tấm lòng trinh bạch nầy, xin chứng minh cùng trời đất vậy thôi.

Mấy lời của cô Ngọc Sương tiễn biệt, Châu Văn Tiếp nghe rất thấm thía vào lòng, thì vội vã day lại trả lời rằng:

 – Những lời vàng tiếng ngọc của cô nương bày tỏ ra đây, làm cho tôi rất cảm động tâm tình, và in vào lòng chạm vào dạ, không bao giờ quên đặng. Vậy tôi xin căn dặn cùng cô nương một điều, là cô nương phải lấy một tánh chất nhẫn nại tinh thần, mà rèn đúc ra một tấm cang trường thiết thạch cho chắc chắn, cho vững bền, đặng mà lo bảo hộ nghiêm đường, và chống với sự gian nan cực khổ. Vì nghiêm đường thì đương lúc tuổi cao tác yếu, mà nhà lại gặp cơn vận bỉ thời quai, tôi rất buồn thầm cho tôi, mắc tẩu bắc bôn nam, buộc ràng việc nước, đã không đặng chia bớt cái gánh trách nhậm gia đình nầy cùng cô, lại còn chất thêm cho một khối chung tình rất nặng nề vào lòng cô nữa. Nhưng mà cái tấm lòng của tôi bôn ba vì nước, đối với tấm lòng cô báo bổ việc nhà, hai mối dây ấy vẫn cứ ràng buộc vấn vít trên mình chúng ta, không thế nào tránh đặng. Vì thế mà đôi ta ngày nay phải chia gánh chung tình nầy làm hai, nữa thì tôi ôm ẵm đem theo, nữa thì cô giữ gìn mà cất lấy. Tôi cũng cầu xin Hoàng thiên Thượng đế cho Nguyễn chúa mau được khôi phục sơn hà, và cho cô cùng tôi được còn sống trên cõi thế gian nầy, thì ngày kia hai ta cũng được đoàn viên hội ngộ.

Nói rồi Châu Văn Tiếp liền từ giã cô Ngọc Sương và cho người dọn dẹp ghe thuyền đặng đưa ông và cô tìm qua xứ khác mà trú ngụ, còn mình vội vã lên yên, giục ngựa buông cương, đi với hai tên bộ hạ lướt dặm băng ngàn, nhắm đường qua Cần Thơ thẳng tới.

error: Content is protected !!