Lời tựa của tác giả

Lấy cặp mắt quan sát mà xem cả hoàn cầu, từ Tây Âu tới Đông Á, từ Mỹ Quốc tới Phi Châu, cái trình độ các nước văn minh lên cao chừng nào, thì cái nền lịch sử tiểu thuyết lại càng vun bồi tô điểm, quí trọng thạnh hành chừng nấy.

Mỗi nước đều có một lịch sử riêng, mỗi lịch sử lại có diễn ra tiểu thuyết đặng phổ thông cho quốc dân rõ biết cái cơ quan hành động của tiền nhơn, sự dinh hư tiên trường của chủng tộc.

Lịch sử có hai thứ: một thứ gọi là lịch sử đại lược chánh biên, một thứ gọi là lịch sử tiểu thuyết.

Lịch sử đại lược chỉ nói tóm tắt những sự lớn lao, mà không nói cặn kẽ những sự mảy múng. Còn lịch sử tiểu thuyết thì nói đủ cả, vừa chuyện lớn lao, vừa chuyện mảy múng, đều trạng ra như một cảnh vật tự nhiên, hiển hiện trước mắt. Lịch sử đại lược có nói nhơn vật sơn xuyên, quốc gia hưng phế, mà không tỏa trạng mạo ngữ ngôn, không tỏa tánh tình phong cảnh.

Còn lịch sử tiểu thuyết thì tỏa đủ các nhơn vật sơn xuyên, tánh tình ngôn ngữ, tỏi tới hỉ, nộ, ái, ố, trí não tinh thần, tỏa tới phong cảnh cỏ hoa, cửa nhà đài các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn ve, làm cho các độc giả ngồi xem quyển sách, miệng đọc câu văn, mà dường như mình đã hóa thân đi du lịch một phong cảnh nào kia, xem thấy một nhơn vật nào đó, khiến cho kẻ đọc ấy dễ cảm xúc vào lòng, dễ quan niệm vào trí.

Ví như đọc Tam Quốc, thấy Quan Công gìn lòng nghĩa khí, đốt đuốc xem thơ, tứ nhiên tỏ ý kính vì, mà tôn sùng vào óc, thấy Tào Tháo lộ thói gian hùng, lộng quyền khi chúa, tức nhiên ghét giận, mà bứt rứt trong lòng. Đọc Thủy hử thấy Tống Giang chiếm cứ Lương Sơn Bạc, bèn dững dững chơn mày, đọc Hồng Lâu thấy Đợi Ngọc thác tại quán Tiêu Tương, liền rưng rưng nước mắt. Đọc Les troiz mousqu taires thấy Hòng Y Giáo chủ là Richelieu phò vua vực nước, vững đặt triều cương, làm tướng cho vua Louis cũng như Quản Trọng, làm tướng cho Tề Hoàng, chắc ai cũng thầm khen trộm mến; thấy quận công Buckingham vào cung, tư tình cùng Hoàng hậu Anne d’Autriche, thế ai cũng động tình mê hương luyến ngọc, mà rởn óc rùng mình. Đọc Les compagnons de Jéhu, thấy Roland một mình vào địa huyệt, thì ngại ngại lòng lo, thấy Bonaparte sắp binh về Paris, lại hừng hừng khí sắc, đọc Le comte de monte-cristo thấy Dantès bị hàm oan 14 năm trong ngục, tự nhiên dàu dàu một mối thương tâm, thấy Mercedès nửa đêm ra mả Edmond, kể lễ sự tình, tức thì ngùi ngùi một lòng bi cảm.

Theo những sự kể trên đây, tiểu thuyết thật là một thứ sách dễ cảm động, dễ kích thích lòng người làm cho nhiều kẻ đọc tới mà quên ăn bỏ ngủ, mê mẩn tâm thần, đọc rồi nằm mười ngày hãy còn tưởng tượng trong trí.

Tiểu thuyết có nhiều thứ khác nhau, nhưng tiểu thuyết về lịch sử thì cần nhứt cho quốc dân ta trong lúc nầy hơn hết. Lịch sử với tiểu thuyết phải cặp kè nhau như mẹ với con, hòa hiệp nhau như chồng với vợ, lịch sử mà không có tiểu thuyết để phụ tùng thì như mẹ mà không con giúp đỡ, thế phải bơ vơ; tiểu thuyết mà không có lịch sử làm cội nguồn, nào khác vợ mà không chồng chủ trương, ắt phải một mình hiu quạnh.

Vậy nếu muốn cho lịch sử nước nhà phổ thông, thì chẳng hay hơn là dùng tiểu thuyết làm mai-nhơn đễ dẫn dắt quốc dân vào đường lịch sử, đó là một phương pháp rất anh linh, và một phương châm rất công hiệu.

Nhưng tiểu thuyết có hai điều quan hệ khác nhau: Một là: tiểu thuyết nào từ nghiêm lý chánh, thì được bổ ích cho xã hội nhơn quần; hai là: tiểu thuyết nào viết bạ nói xàm, chẳng kể luân lý cang thường, ắt gây một mối ác cảm trong lòng người mà phải tồi phong bại tục.

Vậy thì tiểu thuyết cũng có thể đáng kính đáng đáng yêu, mà cũng có thể đánh kính đáng sợ.

Trong nước ta từ hai ngàn năm nay, lịch sử đại lược thì có, mà lịch sử tiểu thuyết thì không.

Lịch sử ta như một cây kia có cội rễ, mà chẳng có nhánh lá bông hoa, như một nhà kia có cột rường mà không có ghế bàn trang sức, nếu cây mà không có nhánh lá bông hoa, thì thành ra cây khô, ngó tới thêm chán thêm buồn, có gì gọi rằng tốt tươi ngoạn mục, còn nhà mà không ghế bàn trang sức, thì thành ra nhà trống, ngó vào tường cao vách đứng, có gì đẹp đẽ mà quan chiêm. Vì vậy cái tình trạng lịch sử của ta thuở nay cũng đâu như thế.

Trừ ra mấy nhà có học thức, có khảo cứu lịch sử mới được hiểu thông.

Kỳ dư, phần nhiều quốc dân đối với lịch sử nước nhà, lơ lãng như khách bàng quan. Nguội lạnh như người ngoại quốc, không biết ham mộ quí trọng lịch sử là gì, không hay sùng bái truy niệm tiền nhơn chi hết, bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu kiến văn, đều đổ trút ra nước ngoài là nước Tàu, mà quên mất tổ tiên, không ai nhắc nhở chi tới.

Bĩ nhơn không muốn nói tới chuyện thượng cổ, trung cổ thời đợi làm chi cho xa xuôi, mà xin nói chuyện một thời đợi gần đây, là chuyện của đức Cao Hoàng (Gia Long) mới vừa qua rồi, chẳng đầy 200 năm nay, mà hỏi lại quốc dân ta sau nầy, phần nhiều không ai rõ biết.

Như các danh nhơn vĩ tích, phụ quốc công thần trong đời đức Gia Long là Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Hữu Thoại, Châu Văn Tiếp, mà người trong Nam ta thì ngơ ngẩn mồ hồ, xem như tuồng kẻ tha bang dị vức.

Vì cớ nào mà quốc dân ta không rõ biết những sự tích ấy? Vì cớ nào mà người nam ta đối với các đấng ấy như người dị vức tha bang.

Cái vấn đề nầy là một vấn đề rất quan thiết cho các đấng văn nhơn phải tự tri mà giải quyết.

Cái nguyên nhơn ấy vẫn có hai điều:

1e – là bởi thuở nay trong xứ ta chưa có lịch sử tiểu thuyết ban hành ra nhiều, chỉ có một vài bộ ít oi, mới xuất bản sau đây, chưa biết thọ yểu thế nào, và cũng chưa đủ cho mắt đời xem xét.

2è – các nhà văn sĩ ta bấy lâu chỉ chuyên luyên khuynh hướng về sự trường thiên đoản cú, vịnh nguyệt ngâm phong, mà không thèm ngó ngàng tô điểm về lối tiểu thuyết quốc văn, nên không ai chịu khó khảo cứu sự tích của nước nhà mà diễn ra cho quốc dân rõ biết.

Bĩ nhơn đâu dám khoe văn múa bút trước cửa Đại phương, song cũng mon men gõ mỏ rung chuông trên trường tiểu thuyết.

Vì vậy chẳng nại lao tâm khổ tức trong lúc đêm tịnh canh trường, khảo cứu các lịch sử tây nam, lượm lặt các chánh biên ngoại truyện, mà phô diễn một bộ lịch sử tiểu thuyết nầy, nhan đề là “Gia Long tẩu quốc” ngõ hầu cống hiến cho đồng bào xem chơi, cho biết một sự tích nhơn vật trong lúc Nguyễn Thị Hoàng triều, đặng để làm một tấm gương phản chiếu cho người mình soi xét.

Cholon le 2er Novembre 1929.

NGUYỄN HỮU NGỠI

Biệt hiệu: TÂN DÂN TỬ cẩn tự.

error: Content is protected !!