Dọn Tùng đình phối hiệp cuộc nhơn duyên,
Lập miễu võ để thờ người trung liệt.
Khi Bạch Thu Hà liều mình tự tử rồi, thì tên đội trưởng ở tại Tùng đình thấy vậy liền báo tin cho quan Tư sự hay, tức thì quan Tư sự bổn thân đến nơi, khán nghiệm thi hài xong rồi, liền viết một biểu chương đặng báo cáo sự ấy cho Hoàng thượng rõ, và biểu đội trưởng coi lo tẫn liệm Thu Hà rồi để riêng linh cữu nơi một nhà kia cách xa Tùng đình chừng trăm thước, và quàn đó mà chờ lịnh.
Đây nhắc lại khi đạo binh tả dực của ta đã đến cứu viện, và các đạo binh kia cũng đều kéo tới tiếp ứng, rồi hỗn chiến một trận với binh Mãn Châu rất dữ dằn, làm cho binh nó đánh không lại, đều kéo nhau chạy tan, chẳng dám xâm lấn bở cõi như khi trước nữa.
Lúc giặc yên rồi, Hoàng thượng bèn hạ lịnh kéo binh về Lạng Sơn, rồi mở tiệc khao binh thưởng tướng. Kế có quan Tư sự bước vô ra mắt Hoàng thượng, và dưng một biểu chương tâu về việc Bạch Thu Hà tự tử, linh cữu còn quàng một bên Tùng đình, và xin Hoàng thượng liệu lượng lẽ nào, đặng định ngày an táng.
Hoàng thượng xem biểu chương rồi thì giậm chơn chắt lưỡi và nói: Trước khi đánh giặc Võ Đông Sơ có gởi cho trẫm ngự bút tứ hôn, kế gặp lúc can qua chinh chiến, vì vậy nên trẫm chưa kịp định cuộc nhơn duyên cho hai đàng, chẳng dè ngày nay Thu Hà lại vì chồng mà tự tử, thật đáng khen cho nàng là một gái tiết hạnh trung trinh, trong đời ít có. Nói rồi day lại hỏi quan Lễ bộ thượng thơ rằng: Theo ý khanh thì việc ấy phải liệu định lẽ nào?
Lễ bộ thượng thơ tâu rằng: “Theo ý thần hạ thì Võ Đông Sơ với Bạch Thu Hà tuy là gá nghĩa nhơn duyên, kết tình chồng vợ, nhưng mắc bị lưu lạc giang hồ nên chưa tính đặng việc hôn phối cho rõ ràng minh bạch, nay Thu hà đã giữ một lòng trinh liệt mà thác theo Đông Sơ đặng cho trọn chữ ân tình, thì cũng là một người đờn bà đáng phong đáng ngợi.
Vậy thì xin Hoàng thượng ngự bút tứ hôn theo lời Đông Sơ đã xin khi trước. Ngỏ cho hai người đặng danh tiết rỡ ràng, và cho khỏi miệng đời ngày sau dị nghị.”
Hoàng thượng nghe rồi gặt đầu, tức thì truyền cho Lễ bộ lập một tờ kiết nhận hôn thơ, rồi Hoàng thượng ngự bút chứng phê, và sắc phong cho Võ Đông Sơ là Võ Hiền Hầu, phong cho Bạch Thu Hà là Tiết liệt Nhứt phẩm phu nhơn, còn Triệu Dõng cũng đặng sắc phong là Khinh xa Trung húy, đó rồi biểu Lễ bộ Thượng thơ lo sắp đặt các việc tang chế cho hoàn toàn và định ngày tống táng.
Bữa nọ quan Lễ bộ Thượng thơ truyền cho quân nhơn dọn dẹp Tùng đình sạch sẽ, và chưng bông thắt tụi, đèn đuốc rỡ ràng, liễn cẩn màn thêu, treo coi rực rỡ, đó rồi truyền đem linh cữu Bạch Thu hà về để một bên linh cữu của Võ Đông Sơ và bảo lấy hai cây gấm đỏ và hai vóc lụa điều phủ trên quan tài, xem như một đám cưới kia, chàng rể với nàng dâu, kẻ áo đỏ người quần điều, hai gã song song ra giữa từ đường mà phối hiệp lương duyên đó vậy, lại thấy giữa Tùng đình màn treo trướng xũ, đèn thắp sáng trưng, thắt tụi kết bông, xem tợ một chỗ động phòng hoa chúc.
Kế đó quan Lễ bộ Thượng thơ ra đứng trước hai linh cữu và đọc tờ Hôn thơ của Hoàng thượng ngự bút tứ hôn như vầy:
” Nghe rằng:
Có ly loạn mới rõ tôi hiền chúa thánh, gặp gian nguy mới biết vợ nghĩa chồng tình.
Trai như Đông Sơ, đáng một trai khí phách anh hùng; gái như Thu Hà, vẫn một gái trung trinh liệt nữ.
Đã lắm lúc giang hồ lưu lạc, cũng giữ một niềm son sắt chẳng nguôi lòng.
lại nhiều phen tai nạn dập dồn, cũng gìn một nghĩa keo sơn không đổi dạ.
Lời thệ ước lời xưa đã nặng, phú thân danh chứng có đất trời.
Nghĩa tóc tơ nghĩa cũ còn ghi, đem vàng đá liều cùng mạng vận.
Xét những lúc non cao vực thẳm, cũng nguyện cùng nhau sanh tử giữ đồng.
Nghĩ cho khi én lạc nhàn xa, cũng quyết một dạ thỉ chung như nhứt.
Rủi cho Đông Sơ, gặp lúc nước nhà hữu sự, nên khiến ra duyện phận lỡ làng.
Thương thay Thu Hà, vì cơn mạng vận đảo điên, xui đến nỗi sắc cầm lỗi nhịp.
Trai địch khái, chiến trường vẫn mạng, phận kim cung đã rõ mặt đứng trung thần.
Gái thuyền quyên vị nghĩa quyên sanh, lòng khẳng khái cũng nên danh trang liệt nữ.
Xét cho tột âm dương đồng nhứt lý, sống nhơn duyên thì thác cũng nhơn duyên.
Nghĩ mà coi nam nữ hệ thân tình, trước chồng vợ há sau không chồng vợ.
Vậy nên, nay lập hôn thơ một bức, đặng định duyên phận đàng,
Trước đặng câu danh tiết rỡ ràng, sau khỏi tiếng thị phi dị nghị.
Vậy thì phong cho hai gả phu vinh thế quí, gối du tiên một giấc phỉ tình chung.
Phán cho hai hồn sanh thuận tử an, miền vân hạc ngàn năm vầy trướng phụng.”
Đoc rồi thì thấy trước linh cữu, màn bay phất phất, đèn chớp lòa lòa, dường như hai hồn nay đặng phối hiệp lương duyên thì trong trướng mừng rỡ bước ra, mà cảm ơn Hoàng thượng, đó rồi hai bên các quan ai nấy thấy vậy cũng đẹp lòng và đổi buồn làm vui, truyện trò hớn hở.
Bữa nọ trong lúc canh tàn gà giục sáng, gương ác rựng hồng, hột sương mai còn mờ mít trên không; chim thức bạn đã liếu lăng bên nhánh, bỗng thấy trước Tùng đình nhán ra một ánh hào quang chớp sáng, và phun lên một lằn khói mịt mù, kế nghe ba tiếng súng đại bác thần công, phát ra đùng đùng như trời gầm sấm nổ, lại nghe ba hồi đại cỗ, một chạp mã la, hai tiếng hòa nhau, giọng nghe rền rĩ, dường như nó kêu người mà báo tin cho biết rằng: Giờ ấy là giờ động quan, ngày nay là ngày tống táng đó vậy.
Kế thấy một đội nhạc binh đi trước, trống kèn inh ỏi, sáo quyễn rập rình, kế đó một đạo võ lâm quân kéo theo, mỗi người đều cầm cờ tang, sắp đi hai hàng, xem rất tề tề chỉnh chỉnh.
Kế thấy bên hữu thì linh cữu Võ Đông Sơ, bên tả thì linh cữu Bạch Thu Hà, tàng che bốn phía, trướng xũ xung quanh, một cặp song song, khiêng đi tề chỉnh.
Kế nữa thì Hoàng thượng ngự giá tống hành, với văn võ bá quan đều áo mão nghiêm trang, đi có lớp lang thứ tự, lại có một đạo binh mã kỵ, rút gươm dàn hầu theo sau mà hộ giá Hoàng thượng, còn hai bên đường nào là trẻ già lớn bé, dắt đến xem coi, nào là xe ngựa nhộn nhàn, đón đưa chật nức, thật là một đám tang có thể thống nghiêm trang, xem rất vinh vang trọng thể.
Khi đi tới núi kia, thì thấy một tòa miễu võ, mới cất dựa gò cao, đồ sộ nguy nga, tàng cây mát mẻ, trước cửa có treo một tấm biển sơn son thếp vàng và chạm bốn chữ: Công thần võ miếu”.
Phía sau thì thấy xây một vòng sơn ly thạch trụ, có chạm hình tử kỳ lân, chính giữa lại xây một cái huyện đều cẩn đá xanh, tư bề rộng rãi, và phía trước dựng một tấm mộ bi cao lớn. Có khắc một hàng chữ như vầy:
“Trung liệt song phần, Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà chi mộ”.
Đó rồi khiêng hai linh cữu đem vô đến giữa miễu đường, tế lễ xong rồi, đem ra chôn chung một huyệt; còn trong miễu thì lập ra ba bàn hương án, một bàn thì thờ Đông Sơ, một bàn thì thờ Thu Hà, và một bàn nữa thì để thờ Triệu Dõng và cất một nhà hậu sở để cho Triệu nương và thể nữ Xuân Đào ở đó sớm tối phụng thờ, mỗi tháng vua có câp bổng phát lương, đặng giữ việc lửa hương tế tư.
Còn hai bên thạch trụ trước miễu có chạm hai câu liễn chữ vàng như vầy:
Phận đứng anh hùng, một thác ơn đền non nước Việt,
Tấm gương liệt nữ, ngàn thu danh rạng đất trời Nam.
Từ đây về sau thiên hạ nhơn dân trong xứ ấy ai ai đi ngang qua miễu nầy thấy tên Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà trên tấm mộ bi, hì đều đem lòng kinh vi sùng bái, và nhớ lại trong lúc Tùng đình thì ngùi ngùi cảm khái và nhắc nhở hai người luôn luôn, nên sau người ta có đặt một câu tục diêu mà hát như vầy:
Thảm thay giọt máu chung tình,
Thương người trung liệt Tùng đình ngày xưa.
————- Chung ————