Kẻ gian nịnh lộng quyền, trung lương bị vu oan. Hai vị trọng thần Vương, Trương trong triều bị tiểu nhân hãm hại. Người thì chém đầu cả nhà, người phải sung quân ải Bắc, nghĩa sĩ dân gian ôm lòng căm phẫn, nổi dậy khắp nơi.
Trong số ấy có gã họ Thẩm được giang hồ kính trọng gọi là “Tam gia”, nổi tiếng với lối sống ngông cuồng phóng túng, và đặc biệt là tuyệt kĩ khinh công cao thâm khó lường, có một không hai trong thiên hạ.
Thẩm Tam gia gấp rút tiếp viện từ ngàn dặm xa xôi, cứu được vợ góa con côi nhà họ Vương ngay trước mắt chó săn triều đình, lại to gan lớn mật cướp Vương thị lang giữa đường sung quân ải Bắc. Từ đó trở đi, bọn họ mai danh ẩn tích, chó săn của triều đình dán lệnh truy nã khắp hang cùng ngõ hẻm cũng không lần được bóng người. Câu chuyện này trở thành truyền kì được dân chúng kể không biết chán…
1.
Đuốc cháy rừng rực khắp núi nối liền thành một con rồng lửa. Tiếng người, tiếng ngựa hí, tiếng chó cậy gần chủ sủa liên hồi khiến cho lòng người hoảng hốt không thôi.
Người phụ nữ bế con trong lòng mà đôi tay run lên bần bật, gió đêm thổi qua lớp vải áo thấm đẫm mồ hôi lạnh khiến nó dính sát vào làn da cô như một lớp băng. Da thịt cô lạnh ngắt, trái tim cũng lạnh căm, máu thịt chen ở giữa giật gấu vá vai cố tỏa ra chút hơi ấm nhưng chẳng thấm tháp gì.
Đột nhiên người phụ nữ bước hụt, trượt xuống khỏi một tảng đá chênh vênh. Cô thốt lên tiếng kêu kinh hãi ngắn ngủi, nhắm tịt hai mắt, cố sức che chở đứa bé trong lòng và chuẩn bị cho một cú ngã trời giáng. Đúng lúc này, một cây gậy trúc dài vươn ra, nhẹ nhàng khéo léo chặn thế ngã lao về phía trước. Người phụ nữ dừng lại quá gấp ép gậy trúc cong đi rồi bắn ngược về, cả người lại ngã ra sau. Cây gậy trúc nọ lại dễ dàng vòng ra sau lưng cô, dựng thẳng chống nhẹ, đỡ cô đứng vững.
“Cẩn thận.” Một giọng nói khàn khàn cất lên.
Người vừa lên tiếng là một gã đàn ông vóc dáng rất cao, áo quần cũ rách, trên cổ đeo mảnh gỗ nhỏ trông như thẻ tên của chó, một bầu rượu rỉ loang lổ lúc lắc bên hông, trông lôi thôi lếch thếch. Tóc hắn bù xù che khuất nửa khuôn mặt, hai mắt lờ đờ chếnh choáng men say, nhìn không rõ là bao nhiêu tuổi, dù sao cũng chẳng đẹp đẽ gì. Hắn ngậm một cọng cỏ trong miệng, tay cầm cây gậy trúc chẳng biết nhặt được ở đâu, lưng cõng thanh kiếm bọc bằng vải rách, vừa đi vừa đung đưa hai vai, dáng vẻ cà lơ phất phơ cứ như lúc nào cũng sẵn sàng gây sự.
Giữa đường cái mà gặp một gã thế này thì quá nửa người qua đường sẽ tránh cho xa.
Vậy mà lúc này, người phụ nữ bế con bị đám chó săn trên cả ngọn núi đuổi giết, lại chỉ có thể trông cậy vào gã đàn ông ấy, đành ôm chút hi vọng cuối cùng mà đánh liều một phen. Song bình thường cô chỉ quanh quẩn ở nhà, bây giờ phải đi cùng phường giang hồ thô kệch lỗ mãng thì vẫn thấy hơi sờ sợ. Bởi vậy khi gã đàn ông kia lại gần, cô liền ôm con lùi một bước theo bản năng.
Tuy gã đàn ông kia ăn mặc như thể sắp ra vệ đường ăn xin đến nơi, nhưng tâm tư lại vô cùng nhạy cảm. Phát hiện ra sự e ngại của người phụ nữ, hắn không tiếp tục bước đến gần, mà cầm ngang cây gậy trúc chìa cho cô, nói: “Nắm lấy.”
Người phụ nữ dè dặt đánh giá hắn rồi ngập ngừng cầm lấy đầu gậy trúc. Gậy trúc dài đến bảy, tám thước, thế mà nằm trong tay hắn thì lại linh hoạt chẳng khác gì một cánh tay, có thể dựng lên dìu cô, lại có thể ngăn giữa hai người, không khiến cô phải xấu hổ. Nắm trong tay một đầu gậy, người mẹ trẻ bỗng cảm thấy an toàn hơn, bèn lắp bắp lên tiếng: “Thẩm… đại hiệp.”
“Thẩm Tam, một gã lưu manh thôi, không phải đại hiệp gì.” Gã đàn ông biếng nhác nói: “Phu nhân, tuy trông tướng tá ta hơi nhếch nhác, nhưng tuyệt đối không vô duyên vô cớ chọc ghẹo người ta. Cô cứ yên tâm.”
“Thẩm… Tam gia.” Người phụ nữ nói lí nhí: “Đa tạ ngài ra tay cứu mạng mẹ con ta. Đại ân đại đức chẳng có gì báo đáp…”
“Ờ.” Thẩm Tam nhận lời cảm ơn của cô, đoạn nói: “Ta được người ta nhờ vả, việc nên làm thôi, không cần báo đáp.”
“Hồi… hồi tiên phu còn sống, khách viếng thăm suốt ngày nườm nượp. Bây giờ tiên phu gặp tai ương, kẻ bỏ đá xuống giếng nhiều vô số kể, mà cả triều văn võ chẳng ai nói đỡ nửa lời. Ngài với vợ chồng ta chẳng qua là bèo nước gặp nhau…”
Người mẹ trẻ căng thẳng quá nên cứ nói dông dài mãi. Thẩm Tam nghe mà thấy chẳng khác nào có mấy con ong mật vo ve bên tai, nhức hết cả đầu. Nhưng cô vừa nói vừa run lẩy bà lẩy bẩy, hắn không tiện quát cô câm miệng, đành phải móc lỗ tai ra chiều ngán ngẩm. Bỗng nhiên, ánh mắt hắn đanh lại, bả vai đang lắc lư cũng dừng hẳn.
Người phụ nữ đang thao thao bất tuyệt bị cây gậy trúc kéo mạnh về phía trước. Ngay sau đó, một luồng sáng lạnh lóe lên trước mắt cô, kiếm phong quất vào mặt đau rát, vài giọt chất lỏng rỏ xuống mặt cô, mùi máu tươi xộc vào mũi. Người phụ nữ giật mình cứng họng, thấy một cái xác rơi bịch xuống đất. Cái xác ấy vừa giống chim, vừa có mỏ nhọn như cáo, toàn thân phủ lông xám, hai cánh mọc sau lưng. Lúc này nó đã bị kiếm sắc chẻ thành hai nửa, thế mà hai con mắt đỏ quạch vẫn trợn lên nhìn người ta chằm chằm.
“Thiên Lý Truy? Đám người này chỉ muốn đuổi giết một đôi mẹ góa con côi mà làm to chuyện đến vậy sao?” Thẩm Tam hừ một tiếng, dùng vải rách lau sạch vết máu trên lưỡi kiếm, sau đó lấy chân gẩy cái xác gầy quắt trên mặt đất rồi vươn tay ra nói với người phụ nữ: “Phu nhân, cho ta xem đứa trẻ một chút.”
Hắn chẳng nói chẳng rằng nhận lấy đứa trẻ còn bọc trong tã lót rồi cúi đầu hít sâu một hơi, quả nhiên ngửi thấy một mùi hương nhàn nhạt. Thứ mùi ấy xen giữa mùi phấn sáp và hương trầm, rất nhẹ, phải áp sát lại mà ngửi mới thấy hôi chua gay mũi. Trên không trung lại vang lên mấy tiếng réo liên tiếp. Bảy, tám con Thiên Lý Truy quần thảo trên bầu trời ngay đỉnh đầu bọn bọ, ré lên những tiếng chói tai như kim châm, xuyên qua bầu trời đêm, truyền đi thật xa.
“Trên người hai mẹ con dính hương theo dấu, bị đám súc sinh kia lần ra rồi.” Thẩm Tam nói: “Đi mau!”
Không biết đám truy binh nuôi bao nhiêu con tiểu quái vật Thiên Lý Truy này. Con trước vừa bỏ mạng, con sau đã lao lên. Thẩm Tam chém hết con này đến con khác, gần như tạo nên một cơn mưa máu. Thứ khốn nạn kia kêu la thảm thiết, máu vẩy suốt đường như cọc tiêu, dẫn truy binh đuổi theo mỗi lúc một gần. Thẩm Tam liếc nhìn người phụ nữ bế con, cảm thấy hai chân cô mọc trên người chỉ để trang trí cho đẹp thôi, có khi phải gắn bánh xe vào mới chạy thoát đám truy binh phóng ngựa, dắt chó đằng sau được. Cứ chạy mãi thế này cũng không phải là cách hay, Thẩm Tam dừng lại: “Phu nhân, thất lễ.”
Hắn giấu hai mẹ con vào một sơn động kín đáo, lột tã lót của đứa nhỏ xuống, quấn áo ngoài của người mẹ thành hình na ná đứa trẻ, nhét vào trong tã. Cuối cùng, hắn quay lại nhìn đôi mẹ con đang trông cậy vào mình, tháo bầu rượu và lương khô trên người xuống: “Vượt qua ngọn núi này, đi về phía Nam hai mươi dặm sẽ đến bến đò. Ở bến đò có thuyền tiếp ứng, là bạn của ta, rất đáng tin. Qua sông là có thể cắt đuôi truy binh rồi. Phu nhân đến miền nam, có chỗ nào để đi không?”
Người phụ nữ đáp lí nhí: “Có vài người họ hàng nhà mẹ đẻ nương tựa được.”
“Ừm, vậy thì kẻ giang hồ lỗ mãng như ta không lo chuyện bao đồng nữa.” Thẩm Tam gật đầu một cái, bỗng vô tình chạm mắt với đứa trẻ trong lòng người phụ nữ. Nói ra cũng thật kì lạ, giữa cái cảnh đêm hôm trốn chạy thế này mà đứa bé cứ im ru chẳng khóc quấy gì, chỉ mở to đôi mắt như hai hạt đậu đen ngắm nhìn thế gian muôn màu mà mình vừa mới tới, dáng vẻ dường như toát ra thần tính.
Thẩm Tam thấy thú vị, bèn cười một cái với bé con kia. Mãi đến lúc ấy, người phụ nữ mới nhận ra hắn có một đôi mắt sáng tựa sao trời.
Thẩm Tam tháo chiếc thẻ gỗ trên cổ xuống. Mặt trước thẻ gỗ khắc hai chữ “Trấn hồn”, mặt sau là bốn câu lạ lùng nghe như lời bịp người của đám lừa đảo giang hồ bày quầy ven đường coi bói. Người đàn ông đeo tấm thẻ lên cổ đứa bé: “Mẹ ta bảo thứ này ta mang theo từ trong bụng mẹ, có thể hóa dữ thành lành. Có lẽ là bà ấy bịa ra, nhưng dù sao ta cũng bình yên khỏe mạnh sống đến chừng này tuổi. Cho bé nó lấy may đi.”
Người phụ nữ vội vã gọi hắn lại: “Tam gia, ngài phải làm sao?”
“Lũ khốn chân ngắn kia không đuổi kịp ta đâu.” Thẩm Tam phẩy tay ngăn cô lại với vẻ bất cần: “Nấp cho kĩ vào, ta có cách thoát thân.”
Người phụ nữ hoảng hốt: “Tam gia!”
Nhưng Thẩm Tam đã cắp cái bọc tã lót giả kia, ngả ngớn chắp tay chào hai mẹ con rồi lao mình vào bóng đêm với thân pháp nhẹ nhàng như yến, loáng cái đã chẳng còn bóng dáng. Đám Thiên Lý Truy ngửi mùi trong tay hắn, ào ào đuổi theo như ong vỡ tổ.
Vô số ngọn đuốc nối thành một con rồng lửa đổ dồn lên đỉnh núi từ bốn phương tám hướng, binh lính mặc giáp chặn đứng tất cả đường xuống núi, bao vây Thẩm Tam chặt như nêm cối. Trên đỉnh núi gió lồng lộng thổi, Thẩm Tam liếc nhìn thiên quân vạn mã đuổi theo, nhoẻn miệng cười, sau đó thả mình nhảy xuống vách núi ngay trước mặt chúng.
2.
Cánh tay phải như bị ai vặn gãy, xương cốt kêu đánh “rắc” một tiếng vang giòn, làm Thẩm Tam đau đến mức phải giật mình tỉnh dậy. Hắn hơi co người một chút, tập trung ánh mắt, tầm nhìn tối lờ mờ được ai đó thắp sáng lên. Người kia mặc quần áo đen, tóc dài chạm đất như thác đổ, không phân biệt được là nam hay nữ, chỉ thấy đôi rèm mi phủ xuống như lông quạ.
“Thần tiên.” Thẩm Tam mơ màng nghĩ.
“Thần tiên” cảm nhận được động tĩnh của hắn, bèn ghé sát tai hắn, nhẹ giọng dỗ dành: “Vai ngươi bị trật khớp, phải nắn lại, chịu đựng một chút nhé.”
“Uầy, nam thần tiên.” Thẩm Tam thất vọng hôn mê bất tỉnh.
Thẩm Tam đang trẻ trung phơi phới, còn lâu mới chịu để người ta ép cho nhảy vực. Hắn đã chuẩn bị sẵn kế ve sầu thoát xác, khi tung mình nhảy xuống thì bắn ra một sợi dây nhỏ mảnh như tơ nhện, treo mình hiểm hóc trên một thân cổ thụ giữa vách núi cheo leo, dùng thân cây che giấu thân mình rồi lột áo khoác ra tung xuống dưới. Bên trong áo khoác bọc chạc cây, từ xa nhìn lại chẳng khác gì người, thu hút hết sự chú ý của truy binh. Hắn vốn định chờ đám chó săn này bỏ đi thì leo lên, ai ngờ đám khốn nạn ấy lại định đóng đô trên núi luôn, không những lục soát khắp nơi mà còn nhóm lửa nấu cơm, chẳng chịu rút quân gì cả.
Thế là Thẩm Tam treo mình trên vách núi nguyên một ngày đêm, cánh tay phải tê dại, người cũng suýt bị gió núi thổi thành thịt khô. Thấy cứ lủng lẳng như vậy cũng không phải là cách hay, hắn đành gian nan dùng một cánh tay trèo xuống đáy vực. Con đường này khó khăn trắc trở, va tới đập lui, thi thoảng còn trượt một đoạn dài. Vừa xuống đến đáy vực trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc, hắn rơi ngay xuống dòng nước xiết, bao nhiêu sức lực trôi sạch, chẳng biết bị cuốn đi đâu.
Xem tình hình hiện tại, có vẻ hắn đã được ai đó vớt lên.
Trong lúc lơ mơ, Thẩm Tam cảm thấy có người nhìn mình đăm đăm không dời mắt. Một bàn tay lạnh buốt thi thoảng lại vuốt nhẹ từng lọn tóc và hai gò má hắn, mùi hương lạnh lẽo mà thanh tịnh vấn vương mãi nơi chóp mũi không tan. Chẳng biết bao lâu sau, sắc trời tối xuống, hơi nước ngưng kết thành giọt, quá mù ra mưa, đám dã thú ăn đêm bắt đầu hoạt động trong sơn cốc. Có tiếng con súc sinh nào gầm rú cách đó xa xa, khiến Thẩm Tam giật mình tỉnh lại.
Hắn nhận ra mình đang ở trong một gian nhà tranh nho nhỏ, nằm trên chiếc giường cỏ xốp mềm thoải mái. Những chỗ trật khớp đều đã được nắn lại, chân trái ngã gãy được nẹp gỗ ngay ngắn, bao nhiêu vết thương lớn nhỏ đều được rửa sạch bôi thuốc, nhẹ nhàng khoan khoái hơn nhiều.
Hắn vừa động đậy đã nghe thấy có người nói sau lưng: “Ngươi tỉnh rồi, uống ngụm nước đi.”
Thẩm Tam giật mình, chống một tay nhổm dậy khỏi giường, nghiêng đầu nhìn người đó. Hắn hành tẩu trên giang hồ từ năm mười ba, mười bốn tuổi, khinh công tuyệt thế vô song (không thì đã chẳng dám nhảy xuống từ vách núi cao như thế). Ấy vậy mà người này tới gần, hắn lại hoàn toàn chẳng phát hiện ra.
Vừa ngước lên, Thẩm Tam đã nhìn rõ người trước mắt. Đó là một người đàn ông còn rất trẻ, làn da trắng tái, đường nét trên gương mặt tuấn tú như tranh, mi mắt hơi rũ xuống làm toát lên vẻ thanh tao mà cô quạnh, chẳng khác nào được khắc từ băng tuyết.
Thẩm Tam thất thần một thoáng: “Ngươi… là người hay là…”
Người kia ngước mắt, đáp lời: “Hả?”
Cặp mắt kia vô cùng đặc biệt, đuôi mắt như được ai dùng một nét bút vẽ ra. Nhưng có lẽ người cầm bút chẳng đứng đắn gì cho cam, thành ra nét vẽ ấy hòa quyện giữa yêu khí, quỷ khí và sự lạnh lùng, khiến cho ba hồn người ngắm đều xao xuyến.
Thẩm Tam chạm mắt người ấy, hai chữ “thần tiên” gần ra đến miệng bỗng biến điệu, bật thốt lên: “…yêu?”
3.
“Yêu huynh” tự xưng là “Ngôi”, không có họ.
Thẩm Tam gia hỏi có phải cái tên này mang ý nghĩa là “cao ngất tầng mây, sừng sững chót vót” không? Ngôi đáp không phải. Y chỉ tùy tiện ghép hai chữ “sơn quỷ” lại với nhau thành một chữ, chứ nghĩa là gì thì chẳng để tâm cho lắm. [1] Yêu huynh ít nói, cứ hễ mở miệng là nói năng rất ôn tồn, mà khi không muốn nói thì y như rằng sẽ nhoẻn miệng cười tươi rói. Hẳn là nụ cười của y mang theo pháp lực. Thẩm Tam ngắm nụ cười ấy mà như thấy muôn hoa khắp núi ngậm sương nở rộ, còn trái tim hắn thì đập rộn trong nỗi rung động chẳng nói nên lời.
Yêu huynh là một yêu quái tốt, vừa lương thiện vừa nhã nhặn. Thấy Thẩm Tam ngã gãy chân, y bèn giữ hắn lại dưỡng thương. Thực ra yêu huynh không đuổi hắn ra khỏi cửa đã là hết lòng hết dạ lắm rồi, ai ngờ người ta còn chăm sóc hắn vô cùng tỉ mỉ. Ngày nào cũng như ngày nấy, chẳng biết y đào đâu ra mấy loại thảo dược kì lạ thay cho hắn mà hiệu quả cực cao; ba bữa cơm tuy chẳng phải sơn hào hải vị đựng trong khay ngọc, nhưng lại thơm ngon hương vị núi rừng. Trong ngôi nhà tranh nho nhỏ thậm chí còn có bàn cờ bằng đá, quân cờ đá hai màu đều được mài thủ công. Mỗi khi rảnh rỗi, hai người lại cùng làm đôi ván cờ cho qua ngày đoạn tháng.
Đôi khi Thẩm Tam có ảo giác mình không còn ở nhân gian mà đã sảy chân ngã nhầm lên cõi tiên nào đó. Mỗi sớm mai thức dậy đều nghe thấy tiếng chuông gió leng keng khe khẽ trên khung cửa. Chùm chuông gió ấy vừa rung lên là chim chóc đua nhau tìm đến, ríu rít vui tai. Thời gian trăm ngày dài miên man trôi qua trong cuộc sống thanh nhàn, không có tiếng ngựa xe ồn ã, không có con người tranh cãi thị phi, không có cả tranh đấu giang hồ, gió tanh mưa máu. Mỗi khi đêm xuống, gió nhẹ ru vỗ lao xao kéo hồn người vào thơ thẩn. Đêm trăng khuyết, ngẩng đầu sẽ thấy sông Ngân trải dài vạn dặm, lúc trăng tròn, cúi đầu sẽ thấy đầy đất sương hoa.
Thẩm Tam và yêu huynh đã hạ vô số ván cờ dưới gốc cây mai cổ thụ trồng trong sân nhỏ, không chơi cờ thì cùng nhắm rượu mà nói chuyện biển bắc trời nam. Yêu huynh có rượu, nghe nói là tự ủ. Rượu của y chân chất đượm đà như bàn cờ nhà y, uống vào rất êm và cũng chẳng hại người.
Vị yêu huynh này như thể mọc ra từ lòng đất, một thân một mình ẩn cư giữa xó núi chim không thèm đẻ trứng, ấy thế mà chẳng thiếu thứ gì. Trong khoảng thời gian dưỡng thương, Thẩm Tam gia nhiều lần hỏi y là do thứ gì biến thành mà y chỉ cười không nói. Thẩm Tam gia đoán hết từ cây cối đến hoa cỏ như gọi món ăn, cuối cùng bỗng nhiên nảy ra một ý: “Ta biết rồi!”
Yêu huynh đang giã thuốc chẳng thèm ngẩng đầu: “Ta không phải sơn trà, không phải hoa nhài, không phải đỗ quyên cũng không phải hoa mai.”
“Không phải cái đám hoa hoét tầm thường đó.” Thẩm Tam cười tủm tỉm: “Ngươi là bông tuyết.”
Yêu huynh nghe hắn nói quàng nói xiên, biết rõ hắn chỉ đoán mò nhưng vẫn lắc đầu cam chịu rồi bình thản đáp: “Bông tuyết vừa rơi xuống đất đã tan thì thành tinh làm sao được? Đến giờ thay thuốc rồi.”
“Có tuyết không tan chứ.” Thẩm Tam nhấc cái chân bị thương lên, để nó nằm ổn định bằng động tác hơi vất vả, sau đó vừa tháo nẹp gỗ, vừa lảm nhảm: “Năm ngoái ta nhận lời mời của một người bạn nên từng đi tới phía Tây. Nơi ấy toàn núi là núi, núi non trùng điệp kéo dài như bất tận. Ở trên đỉnh núi, giữa tháng sáu mà gió bấc vẫn quất thấu xương như mùa đông, tuyết phủ quanh năm, thiên thu vạn đại cũng không thay đổi. Ta thấy có khi ngươi chính là tuyết trên đỉnh núi thần nơi ấy thành tinh cũng nên.”
Khi đầu óc Thẩm Tam thả theo mây gió, xuyên qua núi sông, nhớ đến một đống truyền thuyết quỷ yêu và nghĩ tới vô vàn điều kì lạ, thì yêu huynh đã cẩn thận bôi thuốc và băng bó lại cái chân gãy cho hắn xong xuôi. Động tác của yêu huynh rất nhanh nhưng cực nhẹ, gần như không khiến Thẩm Tam cảm thấy đau. Thẩm Tam cúi nhìn, chỉ thấy mỗi cái đỉnh đầu đen nhánh. Người kia quỳ một gối xuống đất, cẩn trọng như trong tay không phải là chân của một gã đàn ông thô kệch, mà là một món báu vật mong manh hiếm thấy trên đời. Ấm thuốc tỏa khói trắng, ngoài tường gió thoảng qua, trong nhà tranh khô ráo mà sạch sẽ, cả chăn đệm và quần áo đều có mùi hương thơm ngát khi được phơi dưới ánh mặt trời.
Lãng tử giang hồ, không nhà không của, dãi nắng dầm mưa như bèo trôi không rễ, đôi khi chỉ cần một ngụm cháo nóng cũng đủ để hai mắt rớm lệ.
Thẩm Tam là lãng tử trong lãng tử, phiêu bạt tới đáy vực, bị nước xiết cuốn trôi, đưa tới nhà tranh này. Trong một nháy mắt ấy, trái tim hắn hẫng nhịp, ma xui quỷ khiến thốt ra một câu: “Yêu huynh này, ngươi vớt ta về đây, lại tận tình chữa thương cho ta như thế. Nếu chiếu theo truyện cổ thì ta ta phải lấy thân báo đáp cho ngươi thôi.”
Yêu huynh vừa nghe xong thì run tay, bát thuốc rơi xuống đất vỡ tan tành.
Thẩm Tam ngẩn ra: “Ta nói…”
Chữ “đùa” còn chưa thành tiếng, yêu huynh đã cúi gằm mặt, vội vàng dọn sạch mảnh vỡ rồi chạy trối chết.
Luồng gió khi hắn chạy ra làm cả chùm chuông gió vang lên liên hồi, hệt như một đám trẻ con nhi nhao huyên náo, êm tai nhưng phiền phức. Thẩm Tam lấy lại tinh thần một cách muộn màng, trợn mắt nhìn cánh cửa nhà tranh nửa mở nửa khép, dường như ngộ ra điều gì.
Giống như thư sinh và hồ tiên, kẻ bộ hành lạc đường và tinh mị trong núi, Hứa quan nhân và Bạch Nương Tử mà những người kể chuyện thường hay nói…
Hắn gặp được hồ ly đực, tinh mị nam, Bạch “tướng công”.
Thánh quả từ trên trời rơi xuống, ngọt ngào quá đỗi… hơi ê răng rồi.
———-
[1] Giải thích tên của Ngôi: Chữ “ngôi” (嵬) do chữ “sơn” (山) ở trên và chữ “quỷ” (鬼) ở dưới ghép thành, mang nghĩa là cao vút, chót vót.
4.
Sau cái hôm Thẩm Tam nói hươu nói vượn dẫn đến một vụ nhập nhằng tình cảm, cả hai người đều không tự tại như ban đầu nữa. Khi đánh cờ thì cố gắng chỉ nhìn cờ chứ không ngắm người, khi nói chuyện… lại càng chẳng biết nói từ đâu, rất chi là ngượng ngập.
Mà vào thời điểm đó, cái chân gãy của Thẩm Tam cũng khỏi hẳn. Gã này da dày thịt béo, bị thương quen thân, gãy xương bong gân chẳng cần một trăm ngày, bỏ nẹp gỗ tập tễnh mấy hôm là lại tung tăng chạy nhảy. Chân lành tay khỏi, hắn cũng không tiện ăn vạ nhà người ta mãi, huống hồ ở bên ngoài còn bao nhiêu việc mà hắn phải lo.
Hôm ấy, yêu huynh đang tưới nước cho vườn thuốc sau nhà, Thẩm Tam nai nịt gọn gàng, đứng dưới mái hiên, ngẩn ngơ nhìn bóng lưng y. Yêu huynh vô tình quay đầu lại, vừa hay chạm phải ánh mắt hắn, hai người đều sững ra chốc lát. Yêu huynh đứng thẳng dậy giữa vườn thuốc, lên tiếng trước: “Ngươi muốn đi à?”
“Ừm.” Thẩm Tam đáp, sau đó bồi thêm một câu giải thích càng bôi càng đen: “Ta được người ta nhờ vả, đưa mẹ góa con côi nhà Vương đại nhân qua sông, chẳng biết bây giờ bọn họ thế nào, phải đi xem thử… Qua tết Trung thu, Trương thị lang bị sung quân ải Bắc, ông ta từng mời ta một bầu rượu, ta cũng phải hộ tống một đoạn đường.”
Yêu huynh run lên một chút, há to miệng: “Ta…”
Ta cũng từng mời ngươi uống rượu mà.
Thẩm Tam: “Sao?”
“Không sao cả.” Yêu huynh cúi đầu xuống: “Vậy hẹn ngày gặp lại.”
Người giang hồ tựa như cây cỏ, xưa nay đều không nói “hẹn ngày”. Thẩm Tam cúi đầu xuống, chỉnh thanh kiếm đeo sau lưng cho ngay ngắn rồi đi ra ngoài. Lúc tới cổng nhà, hắn bỗng dừng lại, quay đầu nhìn yêu huynh vẫn đang trông theo: “Đại ân không lời nào kể hết, ta sẽ nhớ kĩ trong lòng. Bao giờ ta làm xong việc, sẽ mang hai vò rượu ngon trở về… về…”
Miệng mồm hắn trơn tru là thế mà hôm nay nói chẳng thành câu, sau lưng chợt toát ra một tầng mồ hôi mỏng. Hơi nóng thốc qua cổ tràn lên mang tai, biến hắn thành một gã nói lắp: “Về, về, về mặc ngươi sai bảo.”
Dường như yêu huynh nhoẻn miệng cười, nhưng nụ cười nhuốm màu sầu muộn. Thẩm Tam nhìn y đăm đắm, cuối cùng rảo bước mà đi. Hắn đi dọc bờ sông hơn một trăm trượng, lại quay đầu nhìn ngôi nhà tranh và mảnh sân nhỏ kia, càng đi càng thấy hai chân nặng trĩu. Lòng hắn trống hoác hoang hoải, chẳng hào hứng gì, tim đập cũng qua loa uể oải, cổ thì như bị người ta tròng dây thừng mà kéo, khiến hắn cứ phải quay lại nhìn mãi không thôi.
Thẩm Tam gia đi ngàn dặm chẳng để lại dấu chân bỗng không còn dứt khoát, không còn phóng khoáng, không còn chẳng chút vấn vương. Thế là hắn ngộ ra một chuyện. Mình trúng yêu pháp, để cả linh hồn lại làm tin cho người ta rồi.
Hắn nhất định phải trở về nơi ấy.