Ngày xưa, có vợ chồng phú hộ nọ sinh được năm người con gái. Giàu có lại không có con trai, nên bao nhiêu tình thương đều dồn vào những cô con gái. Họ được cưng chìu như trứng mỏng, hễ đòi gì là được nấy. Lần lượt năm cô lớn lên, lấy chồng và đi ở riêng.
Vì các con gái đều lấy chồng ở xa, nên sau khi cô con út ở riêng ít lâu, vợ chồng phú hộ cảm thấy nhớ các con quá. Họ tính chuyện chia nhau đi thăm các con. Một hôm, vợ bảo chồng:
– Sắp tới, ông chịu khó ở nhà trông nhà để tôi đi thăm chúng nó một lượt, sau đó tôi về trông nhà cho ông đi.
– Phải đó – người chồng đáp – nhưng bà phải đi mau lên mới được, đừng bắt tôi phải đợi lâu.
– Không được đâu, tôi tính ở lại với các con ít lắm mỗi đưa là một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, còn đi đường mất vài ba chục ngày, như vậy cũng phải mất ngót nửa năm đó!
– Thôi được, bà đi đi, bà nhớ đừng cho đứa nào quấn quít quá, rồi ăn dầm nằm dề hoài làm tôi trông đợi.
Vậy là người cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được ít tháng, chồng đã thấy vợ trở về, vẻ mặt buồn xo, chồng hỏi dồn:
– Con có làm sao mà bà về mau vậy, có gặp điều gì dọc đường không mà vẻ mặt không được vui?
Vợ đáp:
– Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều khỏe mạnh, tôi về sớm vì không muốn để ông trông đợi, ông cứ đi một lần cho biết.
Thấy vợ nói úp mở, phú hộ chưa hiểu biết thế nào hết, cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi.
Ông ghé vào nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông rất hài lòng. Nhưng con gái ông thì không được như vậy. Nó chỉ trò chuyện giả lả được ít câu, rồi quay vào công việc của nó. Nhà các chàng rể của ông đều thuộc hàng khá giả, không kém gì ông, cho nên con gái ông còn mải trông coi kẻ ăn người ở, không lúc nào rảnh rỗi. Đến chừng chồng nó ra ruộng trông cày coi cấy thì con gái ông còn chuyên cả việc bếp núc, lúi húi suốt buổi trong bếp, cha con chẳng có dịp trò chuyện. Mãi đến trưa, ông cảm thấy đói bụng như cào, nhưng con ông chẳng chịu cho ông ăn ngay. Ông toan bảo nó cho mình ăn trước khi nó còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm; “Để còn coi, nó đối xử với cha nó như thế nào”.
Ông thấy con gái chờ chồng nó đi làm về mới dọn cơm ra. Nhưng chàng rể của ông lúc ấy tuy đã về rồi nhưng còn bận một số công việc, cho nên ông phải đợi. Đến chừng thấy quá trưa, con gái ông mới bảo chồng:
– Mình ơi! Hãy để đó, vào ăn cơm cho ông già ăn với!
Nghe con nói thế, ông cảm thấy không được vui. Bữa cơm chiều và liên tiếp ngày nào cũng vậy, con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ chẳng phải cho ông. Ông rất buồn, bụng bảo dạ: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì, chồng nó không ăn thì có lẽ mình phải ngồi nhịn đói.”
Ở chơi được ít ngày, thấy con gái không vồn vã như xưa, ông bèn bỏ sự định cũ là chơi một tháng, rồi vội vã từ giã chàng rể và con gái để đến nhà người con gái thứ hai cách đấy non một ngày đường. Trong cuộc hành trình này ông nghĩ bụng: “Chắc đứa sau phải khác, chẳng lẽ đứa nào cũng vậy sao? Vợ chồng ta còn trông cậy chúng nó đồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi cha mẹ già kia mà.”
Nhưng đến nơi, ông lại đâm ra thất vọng. Nhà chàng rể thứ hai tuy không giàu bằng chàng rể thứ nhất, nhưng cũng có của ăn của để. Vợ chồng nó khi thấy cha đến cũng tiếp đãi gọi là cho tròn bổn phận, rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, chẳng chịu bớt chút thời giờ hàn huyên cho bõ những ngày cha con xa nhau.
Lần lượt ông thăm đủ năm cô con gái quý, nhưng chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng ông chép miệng:
– Vậy là con gái, một khi bước về nhà chồng thì chẳng còn là con nhà mình nữa. Nó xem trọng chồng hơn cha mẹ ruột.
Rồi ông quay trở về. Ông tính lại thời gian đi thăm con, kể cả đi lẫn về, không đầy hai tháng, so với chuyến đi của vợ còn ngắn hơn. Nỗi buồn phiền làm ông khó ở trong một vài tuần. Khi đã bớt, ông gọi vợ lại mà bảo rằng:
– Thế là đẻ được mấy đứa con gái, có cũng như không. Hy vọng trông cậy chúng nó đỡ đần lúc tuổi già là không được nữa. Bây giờ bà nó ở nhà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đi mai sau nó chăm sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà nó nghĩ sao?
Vợ phú hộ trả lời rằng:
– Thôi ông ạ! Ông đừng có mất công nhọc xác. Con đẻ đứt ruột ra mà chúng nó không đoái hoài tới mình thì con nuôi có hơn gì. Để tôi kiếm cho ông người vợ lẽ. Không biết chừng nó đẻ cho chúng ta một đứa con trai nối dõi tông đường, chẳng phải tốt hơn ư?
– Trên đời này, có kẻ xấu, người tốt, không phải ai cũng như ai, bà đừng ngại. Tôi đi tìm năm bữa, nửa tháng mà không xong thì trở về rồi sẽ tính liệu sau cũng chưa muộn.
– Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan, biết phụng dưỡng cha mẹ, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu.
Phú hộ bèn đóng bộ một ông già nghèo khó, cất thân ra đi. Ông đi từ làng này sang làng khác, đến đâu ông cũng rao:
– Có ai mua cha tôi ra mà mua. Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi.
Mọi người nghe ông già rao như vậy, ai dũng tưởng ông điên. Có người vui miệng nói:
– Mua lão già ấy về để mà hầu hạ, và rồi đây lão ta trăm tuổi có được đồng nào phải lo tống táng ư? Thà là nuôi đầy tớ còn hơn.
Tuy có nghe nhiều lời mỉa lai đùa cợt, phú hộ vẫn không nản chí, vẫn đi hết xóm này tới ấp kia, miệng rao không ngớt. Bấy giờ ở một làng nọ, có đôi vợ chồng một nông phu nghèo. Nghe có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ.
– Hai đứa mình mồ côi từ thuở nhỏ, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có một mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm thì vui cửa vui nhà.
Thấy vợ bằng lòng, anh chồng chạy ra đón ông già vào và nói;
– Ông định bán bao nhiêu tiền?
– Năm quan không bớt.
– Thú thiệt với ông, nhà tôi nghèo, muốn mua nhưng không có sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo vợ tôi đi vay tiền.
Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát lại trở về, nhưng số tiền vay chỉ được hai quan, người chồng nói.
– Hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền.
Hai ngày sau phú hộ lại tới. Anh nông phu trao tiền cho ông và mời ông vào nhà, “cha cha con con” rất thân tình. Đoạn anh bảo vợ đi chợ lo cơm nước. Phú hộ thấy mái tóc của người vợ hôm nọ còn dài, bây giờ đã biến đi đâu mất, ngạc nhiên hỏi:
– Tạo sao tóc của vợ con lại cắt đi như vậy?
Anh nông phu tần ngần hồi lâu đáp:
– Chẳng giấu gì cha, nhà con nghèo không đủ tiền mua cha, mà nếu không mua thì cũng ít có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc bán đi mới đủ số tiền năm quan đó.
Nghe nói, phú hộ làm thinh. Từ ngày có người cha nuôi, vợ chồng anh nông phu tỏ ra niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ không biết mệt. Phú hộ vẫn không cho biết quê quán gốc tích của mình, hằng ngàu vẫn ăn no ngủ kỹ, đôi lúc còn kêu nhức đầu, đau lưng bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm thấy chạy thuốc. Mặc dù vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước chăm sóc không bao giờ bê trễ.
Cứ như vậy được vài tháng, nhà họ đã nghèo lại nghèo thêm. Họ phải cố gắng làm thêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già. Tình hình như vậy kéo dài được nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà thì gạo tiền đã hết.
Một hôm hai vợ chồng tỉnh dậy đã thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề. Ông bảo họ:
– Các con ơi, hãy đốt cái nhà này rồi theo ta!
Vợ chồng đưa mắt nhìn nhau tưởng ông già loạn trí. Nhưng sau đó ông già giục:
– Làm con thì phải vâng lời cha mẹ, cha đã hiểu các con đi theo cha kiếm ăn, còn cái nhà ọp ẹp này chẳng đáng bao lăm, đừng tiếc nữa.
Hai vợ chồng không dám cãi, đành lượm lặt một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà. Đi theo ông già, họ thấy ông lần hồi xin ăn, tối lại vào nhà người xin ngủ nhờ. Họ vâng lời không chút phàn nàn. Ba người lần hồi đi xin ăn như thế được năm ngày. Sau cùng đến một nơi nhà ngói, tường đá ông mới vui vẻ bảo họ:
– Các con đây đã đến nhà ta rồi!
Vợ phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ:
– Đây mới thiệt là con ta.
Bây giờ hai vợ chồng anh nông phu mới biết được cha mẹ nuôi của mình là một ông nhà giàu có. Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ mình và từ đó hai vợ chồng bước vào cuộc đời sung sướng.
Ít lâu sau, phú hộ lâm bịnh nặng, biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn đem tờ di chúc để phần lớn tài sản cho đứa con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trối:
– Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết. Nếu chúng có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ bứt néo (1) cho mà coi. Việc để tang thì đứa con trai cứ theo cổ tục cắt tóc, đội mũ, quấn rơm lên đầu để chứng tỏ mình chịu cực khổ với cha mẽ, thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu thì bảo khỏi cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã hy sinh mái tóc dài của mình để mau cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ.
Nhưng sau khi khâm lei65m xong, bà phú hộ vì nặng tình thương con nên cũng cho người báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trối củ cha cho chúng nghe và bảo chúng đừng có vào nhà kẻo có việc chẳng lành. Năm người con gái tỏ lòng hối hận nhưng việc đã rồi. Khi đưa linh cữu ra đồng, các con gái cố đòi đi đưa cho bằng được. Mẹ khuyên can các con mãi không xong cuối cùng đành phải chịu, ngoài khăn tang, còn thêm cho mỗi đức một vuông vải để chúng che mặt lại, mong linh hồn cha chúng không biết.
Từ đó về sau, tục lệ để tang này được người đời bắt chước: con trai cắt tóc đội mũ vành rơm, dây lưng chuối, con dâu miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang lại miễn cả che mặt, còn con gái thì ngoài khăn tang còn có miếng vải nhỏ để che mặt.
(Theo Lê Hương: Truyện tích Việt Nam)
(1) Bứt néo: Ngày xưa có lúc người ta không đóng chốt quan tài, chỉ buộc dây ở ngoài gọi là “néo”. Bứt néo là làm đứt dây buộc quan tài, chỉ sự giận dữ của người chết.