Ngày xưa ở vùng Đồng Nai, có một bộ tộc du mục thuộc dân tộc Châu Mạ chuyên sống bằng nghề nương rẫy và săn bắt thú rừng. Đứng đầu bộ tộc này là tù trưởng Xơ-ra-đi, tuy râu tóc đã bạc phơ nhưng ông còn rất khỏe mạnh.
Xơ-ra-đi-na là con trai lớn của tù trưởng Xơ-ra-đi, được cha truyền nghề cung ná từ nhỏ nên sớm trở thành tay thiện xạ. Trong một ngày Xơ-ra-đi-na có thể dễ dàng hạ hai con hổ. Chàng còn có thể hạ được cả loài cá sấu hung dữ đã một thời gây khủng khiếp ở vùng giáp sông Bé và sông Đồng Nai.
Lúc bấy giờ ở thượng nguồn sông Đồng Nai có nàng Điểu Du là trưởng nữ của tù trưởng Điểu Lôi, người Châu Ro. Điều Du say mê tập tành phóng lao với chí hướng nối nghiệp cha. Chính cô đã trừ được con voi một ngà hung dữ ở vùng Đạt Bo.
Tiếng thơm bay xa. Tài thiện nghệ của Xơ-ra-đi-na gây được sự cảm mên trong lòng Điểu Du. Và Xơ-ra-đi-na cũng muốn được gặp mặt người con gái nổi tiếng về tài phóng lao ở miền thượng du con sông.
Năm kia, trời hạn hán. Các con suối lớn nhỏ đều khô cạn. Cả người lẫn thú đổ xô ra sông tìm nước uống. Một hôm trời chuyển giông, mây đen chao đảo trên vòm trời. Một chiếc xuồng độc mộc chở một thiếu nữ tất tả xuôi mau vô bờ. Bỗng một con cá sấu từ dưới nước nổi lên và đuổi theo chiếc xuồng. Lập tức hai mũi lao từ tay Điểu Du phóng nhanh về phía con cá sấu. Nó bị thương nên càng vùng vẫy, lồng lộn, há miệng định nuối chửng cả chiếc xuồng và người con gái. Trong cơn nguy hiểm may sao thuyền của Xơ-ra-đi-na vừa kịp xuất hiện. Nhanh như chớp, chàng bắn liền hai phát tên. Cá sấu trúng tên chạy được một đoạn thì chìm nghỉm.
Xơ-ra-đi-na và Điểu Du quen nhau từ đó. Họ trở thành đôi bạn xuôi ngược dòng sông. Dần dần họ yêu nhau. Mối tình của hai người được Xơ-ra-đi và Điểu Lôi chấp thuận. Theo phong tục hồi đó, trước ngày cưới, Xơ-ra-đi-na phải về ở rể bên đàng gái. Xơ-ra-đi cho con trai mình chiếc tù và, đồng thời căn dặn thêm:
– Gặp trắc trở thì thổi tù và, sẽ có người đến giúp.
Xơ-ra-đi-na lên con ngựa trắng tiến về miền thượng du. Đi một đạon đường, gặp con suối cạn, Xơ-ra-đi-na phải dìu ngựa qua các gộp đá lởm chởm. Đột nhiên từ trên cây cổ thụ một con hổ xám phóng xuống ôm choàng lấy Xơ-ra-đi-na.
Đó là một gã đàn ông đội lốt hổ. Nó vừa đánh nhau với Xơ-ra-đi-na vừa hăm dọa:
– Thần hổ đây! Tao sẽ giết mày vì mày có tội …
Xơ-ra-đi-na nào phải tay vừa. “Thần hổ” bị đánh ngã, bèn xông tới toan cướp ngựa. Con ngựa trắng hí lanh lảnh, chồm lên dữ dội. “Thần hổ” bị ngựa đá, phóng nhanh vào rừng.
Đi thêm được một đỗi ngắn, Xơ-ra-đi-na thấy Điểu Du ra đón chàng ở bìa rừng. Đàng xa Điểu Lôi cũng vừa tới.
Nhân lúc ngồi nghỉ, Xơ-ra-đi-na hỏi Điểu Du:
– Vùng này có hổ không em?
Điểu Du cười đáp:
– Thằng thầy mo Sang Mô đó. Nó bày trò hù dọa dân làng. Nó oán em lắm, vì em không ưng nó.
Thấy bóng Sang Mô loáng thoáng gần đó, Xơ-ra-đi-na lên tiếng:
– Mời anh Sang Mô đến uống rượu với chúng tôi.
Sang Mô đến, hắn trừng mắt nói với Xơ-ra-đi-na:
– Anh là kẻ xa lạ, đến đây để làm gì?
Một lát, hắn nhìn Xơ-ra-đi-na cười nham hiểm:
– Nghe nói anh nổi tiếng về tài thiện xạ. Vậy ta thách anh: nếu anh bắn trúng cái lá chót trên cành cây ta đang cầm trong tay thì ta sẽ nhường Điểu Du cho anh.
Hắn bẻ một nhánh quít rừng và giơ lên. Hắn vừa thách vừa lắc lắc bàn tay khiến nhánh quít run rẩy như gặp gió.:
– Nào, bắn đi!
Dừng một phút, Xơ-ra-đi-na quát lớn.
– Thần hổ, coi đây!
Sang Mô giật mình, ngừng tay. Xơ-ra-đi-na bắn mũi tên xuyên qua chiếc lá chót. Mọi người reo hò hoan hỷ.
Lễ cưới diễn ra trọng thể. Đâm trâu, rượu ngon, múa hát … dân làng ca ngợi đôi trai gái bằng tiếng hát và tiếng cồng chiêng vang dậy. Riêng Sang Mô tức tối, kiếm cách trả thù.
Năm sau Điểu Du sanh được một con trai. Ngày đứa bé ra đời, trời mưa tầm tã, Sang Mô nhân đó tung tin: “Điểu Du sanh ra ma quỉ, rồi sẽ có nạn mất mùa đói kém!”
Do đồn nhảm Sang Mô bị Điểu Lôi quở phạt. Hắn càng oán giận. Năm sau nữa, trong một chuyến đi săn chung với Điểu Lôi, Sang Mô đã sát hại tù trưởng bằng một mũi tên bắn lén vào sau lưng. Rồi hắn cùng mười tên phản loạn khác kéo về suối Đạt Bo để giết luôn vợ chồng Xơ-ra-đi-na.
Canh hai đêm đó, ngôi nhà của vợ chồng Xơ-ra-đi-na bỗng dưng bốc cháy. Xơ-ra-đi-na chỉ kịp hét lớn: “Có kẻ đốt nhà!” rồi ẵm con cùng Điểu Du thoát khỏi vùng lửa.
Cuộc xô xát diễn ra ác liệt. Mải lo che chở cho con, Xơ-ra-đi-na bị thất thế. Còn Điểu Du sau một lúc chống cự cũng bị bọn Sang Mô bắt. Xơ-ra-đi-na xông tới cứu vợ. Đứa con tuột khỏi tay chàng văng xuống đất.
Bỗng một cái bóng mảnh mai lao nhanh đến và ôm lấy thằng bé thoát vào rừng. Sang Mô gào lên;
– Đuổi theo, trừ diệt tiệt nòi!
Nhưng bóng con ngựa trắng của Xơ-ra-đi-na chở Sang Mỵ trên lưng đã biến mất trong rừng.
“Cho dù là em gái ta, cũng cứ bắn!”, tên bay vun vút. Sang Mô còn đốt cháy rừng hòng ngăn cản em gái mình chạy thoát. Tức giận, Sang Mô nghiến răng trói chặt vợ chồng Xơ-ra-đi-na quăng xuống một chiếc xuồng có chất lẫn một thứ nhựa cây dễ cháy, rồi thả xuồng trôi theo dòng nước chảy xiết. Sang Mô cho chèo cuồng rượt theo và cứ nhắm vào xuồng của Xơ-ra-đi-na mà buông những phát tên lửa. Đến một bậc đá xuồng bị cản lại. Xơ-ra-đi-na đã kịp tháo dây trói hai tay và rút tù và ra thổi một hồi dài.
Hàng trăm người ở miền hạ du nghe tiếng tù và liền đổ xô ra bờ sông, nhảy qua những gộp đá, tiến tới chiếc xuồng đang bốc cháy ngùn ngụt. Mọi người ngậm ngùi trước cái chết đau đớn của Xơ-ra-đi-na và Điểu Du. Vừa lúc ấy con ngựa trắng chở Sang Mỵ có hai mũi tên cắm sâu. Nàng chỉ kịp trao đứa bé cho ông già Xơ-ra-đi rồi ngã gục xuống ngựa. Xơ-ra-đi vuốt mắt Sang Mỵ.
– Ngàn đời ta tri ân nàng đã cứu cháu ta.
Còn con ngựa trắng thì ngước đầu nhìn ra phía ngọn lửa đang bốc cháy. Không thấy chủ, nó hí lên một hồi dài buồn thảm rồi phóng mình xuống dòng thác xoáy.
Trong khi đó bà con đã bắt trói Sang Mô và mười tên phản loạn đem nạp cho Xơ-ra-đi. Những tên nghe lời dụ dỗ mua chuộc của Sang Mô được Xơ-ra-đi xá tội. Còn Snag Mô thì bị trói chặt vào chỗ nó đã gây ra tội ác. Tù trưởng Xơ-ra-đi giương ná và lắp một mũi tên ngắm vào Sang Mô. Mọi người hồi hộp chờ đợi. Bỗng ông hạ ná và hô một tiếng “Pa” ngắn gọn, rồi quẳng cái ná xuống dòng thác.
Ông muốn cho đời sau hiểu rằng: mối hận thù phải được lấp bằng. Mọi người nên sống với nhau trong tình thương lớn. Vì lòng tri ân đối với Sang Mỵ ông tha chết cho Sang Mô. Sang Mô rạp đầu lạy Xơ-ra-đi rồi ôm xác Sang Mỵ bước xuống xuồng, nước mắt lã chã.
TỪ đó người trong cùng gọi thác này là thác Tri Ân, sau đọc trại thành Trị An.
KHẢO DỊ 1
Ngày xưa, sông Đồng Nai đoạn từ thượng nguồn chảy về vùng Mã Đà, tuy không rộng nhưng rất phẳng lặng, … Hai bên bờ là dải rừng già, có thú dữ và nhiều thứ cây. Hồi đó đã có người sinh cơ lập nghiệp ở đây, họ tuyên truyền thành từng bộ tộc và sống bằng nghề săn bắn là chính.
Trong bộ tộc bên này sông, dưới chỗ đuôi thác bây giờ, có một chàng trai tuấn tú, dũng cảm. Chàng sống rất nghèo nhưng trong sạch, lại có bụng thương người. Ngày đêm cung nỏ không lúc nào rời khỏi tay chàng, và không có đường ngang ngả tắt nào trong rừng mà không có dấu chân chàng đặt tới.
Một hôm chàng vội qua sông, đến khu rừng bên kia bờ để săn. Vì mải mê đuổi theo một con nai, chàng lạc vào một khu rừng rậm, nơi có một bộ lạc khác đang sinh sống. Con nai chỉ còn cáh chàng trong gang tấc, chàng giương cung định bắn, bỗng một tiếng thét vang lên lanh lảnh: “Đừng bắn nó!”.
Dừng quanh một lúc, chàng thấy hiện ra ở đầu trảng một cô gái xinh đêp đang đi về phía chàng. Nàng chính là con gái độc nhất của tên tộc trưởng giàu có và khét tiếng tàn ác trong vùng.
Sau phút gặp gỡ ban đầu, cặp trai tài gái sắc cảm mến rồi yêu nhau tha thiết. Từ đó, hai người thường đến với nhau, lúc săn thú, bắt chim trong rừng, lúc ngồi giặt áo bên sông, lúc ngắm trăng lên trên đầu trảng. Tất nhiên, cuộc hẹn hò đều lén lút, vì hai người biết rằng điều khủng khiếp sẽ xảy ra nếy tên tộc trưởng gian ác hay được. Nhưng rồi điều đó cũng tới. Qua sự dò la của thuộc hạ, tên tộc trưởng biết được chàng trai khác bộ tộc và nghèo xơ xác vẫn lẩn quất trong rừng rậm thuộc địa hạt của mình. Hơn thế nữa, hắn còn dám liều lĩnh quyến rũ đứa con gái duy nhất của y – đứa con gái y định gả cho một tên tộc trưởng ở khu rừng trên, cũng giàu có như y, nhưng đã quá già. Thế là cơn thịnh nộ nổi lên. Bất chấp đó là núm ruột của mình, bất chấp lời van xin thảm thiết, tiếng kêu xé lòng của người con gái, tên tộc trưởng đã đánh đập nàng hết sức dã man, buộc nàng phải chấp nhận lấy tên chồng già theo ý hắn, mà trong trái tim nàng chỉ có hình bóng của chàng trai ấy mà thôi.
Một hôm khi trời đất còn đang mờ mịt, người con gái đã lén bỏ nhà trốn vào rừng. Gặp chàng trai, nàng gục đầu vào ngực cháng khóc than, kể lể mọi việc đã xảy ra đối với nàng, và những âm mưu của tên tộc trưởng là cha nàng. Đó cũng là lúc đám quân lính dưới sự chỉ huy của tên tộc trưởng, đã lần theo dấu chân nàng mai phục dày đặc quanh rừng để bắt sống chàng cho bằng được. Nghe tiếng động chàng buông người con gái ra, băng rừng chạy nhanh về phía bờ sông. Sông hẹp và chảy êm ả, chỉ trong nháy mắt chàng có thể vượt qua sông sang bờ bên kia để trốn vào rừng. về với bộ tộc mình.
Chàng nhảy xuống nước ra đến giữa sông, bỗng nhiên hai bên bờ dậy tiếng la hét inh ỏi của đám lính và liền theo đó là những tảng đá lớn được đẩy xuống chặn hết lối thoát của chàng. Đám lính tràn xuống bắt được chàng. Tên tộc trưởng ra lệnh cột chàng vào tảng đá lớn nhứt ở giữa sông, rồi tập hợp các tay thiện xạ giương cung phóng hàng trăm mũi tên vào người cháng. Dù khắp mình bị nhiều mũi tên xuyên thủng, chàng vẩn hiên ngang lẫm liệt. Đôi mắt chàng mở to, lúc thì long lên nhìn về phía kẻ thù, lúc lại hiền dịu xanh trong hướng về rừng:
– Hỡi rừng xanh, hãy trả thù cho ta!
Đột nhiên chàng trai thét lớn, tiếng thét như một trận bão áo ào lay động cả rừng cây. Và lạ lùng thay, sau tiếng thét xé trời này, người con gái mà chàng yêu dấu đã hớt hãi chạy đến bên bờ sông. Khi hai người thấy nhau, chàng trai rùng mình một cái, rồi gục chết.
Bất chấp bọn lính ngăn cản và hăm dọa, người con gái chạy băng xuống dòng dông, nhảy qua các gộp đá. Khi đến bên người yêu, nàng ôm lấy chàng khóc thảm thiết. Một lát, người con gái đứng thẳng dậy, dựa lưng vào người yêu, ngẩng mặt về phía bờ sông thét lên:
– Này lũ sát nhân, bây hãy giết tao đi, hãy bắn tao đi!
Không biết vì có lệnh của tên tộc trưởng hay vì say máu giết người, sau tiếng thét đó, đám lính trên bờ giương cung phóng hàng trăm mũi tên vào người nàng.
– Hỡi dòng sông yêu dấu, hãy trả thù cho ta!
Người con gái chỉ kêu lên được mấy tiếng, rồi vòng tay qua cổ người yêu, gục xuống chết. Và cũng lạ lùng thay, sau tiếng gọi của người con gái, nước sông đã tức ngẹn dưới chân hai người, chợt trào lên lai láng, mênh mông và như đạo quân dũng mãnh ào ào tràn qua các gộp đá, tung bọt trắng xóa, … Thác này có từ ngày đó và được gọi là thác tương tư.
Cũng có người cho rằng sau khi tên tộc trưởng diệt được mối tình chung thủy và giết được đôi trai gái, không còn gì để chém giết nhau nữa nên người ta gọi thác này là Trị An, … Nhưng cứ vào mùa khô, tiếng thác êm ả trầm buồn nghe mà xé ruột, xé lòng. Người đời bảo rằng đó là tiếng khóc bi ai của người con gái. Còn vào mùa mưa tiếng thác lại xối xả, gầm gào. Người đời bảo đó là tiếng thét phẫn nộ của người con trai.
(Theo lời kể của ông Bảy Mã Đà ở Suối Sỏi).
KHẢO DỊ 2
Thác Trị An ở trên sông Đồng Nai, gần xóm cát, cách thành phố Biên Hòa khoảng ba mươi sáu cây số theo tỉnh lộ 24. Ở khúc sông này có một cụm đá bà nằm chắn ngang giữa dòng nước chảy. Về mùa cạn, những cụm đá bàn nổi lên, nhìn kỹ từ trên xuống dưới gồm bảy phiến chồng chất lên nhau, do vậy mà có tên Thạch Thất Thanh. Về mùa mưa, nước trên nguồn chảy xuống mạnh. Đến chỗ cụm đá bàn nước bị chặn lại tỏa ngọn ra, rồi mực nước dâng lên. Những đợt nước sau xô đến, đập phá mãnh liệt vào cụm đá bàn tạo thành cả trăm cột nước vọt cao lên rồi tung tóe ra, tỏa thành một màn sương mù.
Người dân ở đây truyền tụng một câu chuyện giải thích về nguồn gốc thác Trị An như sau:
Ngày xưa đã lâu lắm rồi, lúc vùng đất này thuộc quyền cai quản của nhiều bộ lạc. Mỗi bộ lạc dần dần thành một tiểu quốc.
Một hoàng tử không rõ thuộc vương quốc nào ở cách xa đó hàng ngàn dặm về phía bắc, đã vượt biển phiêu lưu đây đó để thỏa mãn óc tò mò. Chàng ngược dòng sông Đồng Nai về Hàn Ông Sâm ngày nay thì bị thổ dân bắt giữ, đem nộp cho tù trưởng bộ lạc. Tù nhân bị kết tội là kẻ do thám của nước thù địch và bị kết án tử hình. Nhưng nhờ vóc dáng lực lưỡng và tỏ ra là một dũng sĩ cương trường và can đảm, chàng được tù trưởng khoan dung và sung vào làm vệ sĩ.
Một hôm người con gái của tù trưởng bộ lạc vào rừng dạo chơi, bị một con trăn lớn làm hại. Liền sau đó, chàng vệ sĩ mới này đã nhanh chóng vung gươm giết chết con trăn cứu người con gái của tù trưởng. Cảm ân nghĩa ấy, người con gái của tù trưởng xin với cha được kết duyên cùng chàng.
Sống ở đây ít lâu, hoàng tử bắt đầu nhớ về quê cũ, chàng có ý muốn về cố quốc. Nhận thấy điều đó, người tù trưởng mới sai dân bộ lạc đem đá ngăn dòng để chặn lối chàng ra biển tìm về quê hương. Nhân chỗ bờ đá ngăn sông, tù trưởng cho đắp một cây cầu thiêng làm đàn tế thần bảo hộ đất nước hàng năm. Cây cầu có liên quan đến vận mệnh của bộ lạc nên chỉ có tù trưởng và một phù thủy trợ tế mới có quyền lên cầu. Còn bất cứ ai hễ bước chân lên đó là phạm vào uy quyền của bách thần gây nên tai vạ cho nòi giống đều bị kết tội tử hình.
Hoàng tử càng ngày càng nhớ quê cha đất tổ nên một hôm đã liều mình lên cầu để quan sát, tìm lối băng rừng về xứ cũ. Chàng bị đám quân canh gác cầu bắt được đưa vào trình tủ trưởng rồi chiếu luật đem chàng xử tử.
Đầu và thân chàng bị quẳng xuống dòng nước để tù trưởng tạ tội với bách thần. Chàng chết rồi, người vợ còn trẻ ngày ngày leo lên cầu than khóc mong được chết theo chồng cho trọn lòng chung thủy. Rồi ngày qua tháng lại, nàng hóa thành đá. Ngày nay ở thác Trị An có hòn đ1 giống hình một người thiếu phụ ngồi nhìn xuống sông. Dân chúng gọi đó là “Hòn vọng phu”.
Chỗ sông lấp được người sau gọi là Thạch Thất Thanh. Đời chúa Hiền dân vào khai khẩn cùng đất ven sông này. Ông Sâm là người đầu tiên tới lập nghiệp ở đây, nên Hàn Bảy Đá cũng có tên là Hàn Ông Sâm.