Vụ án 254: Vụ bắt cóc con trai phi công Lindbergh

Mất tích bí ẩn

Vào một buổi tối mưa lạnh ngày 1/3/1932 tại nước Mỹ, khi đó là khoảng 20h, Betty Gow – nữ y tá của gia đình Lindbergh bế cậu bé 20 tháng tuổi Charles lên phòng ngủ. Cô nhẹ nhàng đặt cậu bé vào trong nôi. Một lúc sau khi Charles ngủ say, nữ y tá yên tâm rời khỏi phòng.

Khoảng 21h30, Charles Lindbergh đang ngồi trong phòng đọc sách thì nghe thấy tiếng động lạ. Tuy nhiên, anh nghĩ rằng có đồ vật gì đó bị rơi trong nhà bếp nên đã không đi kiểm tra.

Hơn 22h, nữ y tá Betty Gow trở lại căn phòng để kiểm tra thì phát hiện cậu bé không còn nằm trong nôi và đã biến mất. Vội chạy đi hỏi Anne Lindbergh – mẹ của Charles thì được biết cô chỉ vừa mới bước ra khỏi phòng tắm.

Và rồi, ngài đại tá Lindbergh bất ngờ nghe thấy tiếng hét thất thanh của vợ. Charles Lindbergh ngay lập tức chạy lên phòng con trai và nhanh chóng hiểu ra mọi chuyện. Tìm kiếm khắp căn phòng, anh thấy một chiếc phong bì màu trắng trên bệ cửa sổ nhưng khi đó trong đầu vị đại tá chỉ nghĩ đến mục tiêu duy nhất là tìm con trai và chỉ kịp bỏ chiếc phong bì vào ngăn kéo rồi lấy súng và đi khắp nhà để tìm kẻ xâm nhập.

Gia đình Lindbergh sống trong một ngôi biệt thự ở Englewood, New Jersey, ngày cuối tuần, họ thường tới thị trấn Hopewell để nghỉ ngơi. Như mọi lần, họ sẽ rời Hopewell vào buổi sáng thứ 2. Nhưng hôm đó, cậu con trai nhỏ của họ bị cảm lạnh, cả hai quyết định ở lại đây thêm vài ngày thì sự việc xảy ra.

Cảnh sát vào cuộc

22h25, người quản gia vội vàng gọi điện cho cảnh sát thị trấn Hopewell và cả cảnh sát bang New Jersey. 20 phút sau, lực lượng cảnh sát do đại tá Norman Schwarzkopf dẫn đầu đã có mặt tại khu nhà để chỉ huy việc tìm kiếm. Khi họ tới nơi, Đại tá Lindbergh vẫn đang tay cầm khẩu súng trường lục soát khắp ngôi nhà.

Nhưng ngoài cảnh sát, các phương tiện truyền thông cũng kéo tới ngày một đông. Vì nó liên quan đến một người nổi tiếng nên lại càng thu hút nhiều sự chú ý của giới báo chí và truyền thông. Trước đó, do bị quan tâm quá mức nên để tránh bị làm phiền, Lindbergh đã xây một khu nhà trên một triền đồi xa xôi ở New Jersey, thuộc thị trấn nhỏ Hopewell.

Đại tá Norman Schwarzkopf vốn là một sĩ quan quân đội trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Với tài năng của mình, Ở tuổi 26, Norman đã được bổ nhiệm là người đứng đầu của cảnh sát bang New Jersey khi đó. Lindbergh hoàn toàn đặt niềm tin vào người đồng nghiệp Norman Schwarzkopf trong việc tìm kiếm con trai mình.

Cảnh sát điều tra khu vực bên ngoài ngôi nhà. Họ tìm thấy ba mảnh thang được thiết kế thô sơ nhưng khá thông minh bị vứt trong một bụi cây gần một con đường đất nhỏ dẫn tới khu nhà, bên cạnh có vết lốp xe. Vì thời điểm này, thời tiết mưa và ẩm ướt nên cảnh sát có thể dễ dàng nhận ra có chiếc xe nào đó đã dừng lại bên bụi cây một lúc.

Nhiều dấu chân cũng được phát hiện trên nền đất ẩm ướt bên dưới cửa sổ. Cảnh sát nhận định có thể hung thủ đã dùng thang để tiếp cận với phòng ngủ của cậu bé.

Sau đó, rất đông lực lượng cảnh sát tìm kiếm xung quanh. Nhưng do hung thủ đã chuẩn bị khá kỹ càng nên không hề để lại dấu vết. Cảnh sát chỉ tìm thấy dấu vân tay của vợ chồng Lindbergh, đứa bé 20 tháng tuổi và nữ y tá Betty Gow, gây khó khăn cho cơ quan điều tra.

Lúc này, Lindbergh chợt nhớ đến chiếc phong bì màu trắng mà anh tìm thấy bên cửa sổ phòng con trai. Lập tức Lindbergh mở ngăn kéo và xé phong bì. Bên trong, một bức thư với những dòng chữ nguệch ngoạc hiện ra. Càng đọc, Lindbergh càng nhận ra cậu con trai của mình thực sự đang gặp nguy hiểm.

Vụ bắt cóc manh động

Trước khi chiếc phong bì được mở, cảnh sát đã cẩn thận lấy dấu vân tay để lại trên đó. Cẩn thận cắt chiếc phong bì, bên trong dần hiện ra tờ giấy nhỏ được viết mực xanh. Bức thư đòi tiền chuộc bằng tiếng Anh, có nhiều lỗi chính tả, thậm chí sai cả về cấu trúc ngữ pháp với nội dung như sau:

“Thưa ngài đại tá! Hãy chuẩn bị 50.000 USD, 25.000 USD loại tiền 20 USD, 15.000 USD loại tiền 10 USD và 10.000 USD loại tiền 5 USD. Sau 2 đến 4 ngày, chúng tôi sẽ thông báo cho ông địa điểm giấu thằng bé. Chúng tôi cảnh báo trước rằng, bất cứ thông báo nào với cảnh sát cũng sẽ khiến con trai ông gặp nguy hiểm.”

Ở góc phía dưới, góc bên phải bức thư có vẽ hai hình tròn được lồng vào nhau. Giữa hai vòng tròn được tô màu đỏ, có ba lỗ bấm trên bức thư. Cảnh sát không hề tìm thấy bất kỳ dấu vân tay trên phong thư đòi tiền chuộc. Họ tin rằng tên bắt cóc đã đeo găng tay và bọc đế giày, nhằm tránh để lại manh mối. Ngoài ra, theo nhận định của cảnh sát, bức thư này được viết bởi một người gốc Đức.

Lúc này, vợ chồng vị đại tá thực sự hoảng loạn. Tuy muốn cảnh sát bí mật điều tra để tránh “rút dây động rừng” nhưng mọi việc lại không như Lindbergh mong đợi bởi sự nổi tiếng của mình. Ngay trong đêm đó, các đài phát thanh và cả các tờ báo địa phương đã dồn dập đưa tin về vụ bắt cóc. Các tờ báo thậm chí còn đặt cả trung tâm tạm thời ngay tại một khách sạn nhỏ ở Hopewell để theo dõi diễn biến cuộc điều tra. Dư luận khắp nơi đều bàn tán về vụ bắt cóc manh động này.

Những giả thuyết đầu tiên

Vì mức độ nghiêm trọng của sự việc và vụ án có liên quan tới người anh hùng dân tộc nước Mỹ nên Tổng thống Herbert Hoover lúc đó còn đích thân đến thăm hỏi tình hình. Cục Điều tra Liên bang (tiền thân của lực lượng FBI) được ủy quyền để điều tra vụ án.

Có nhiều giả thuyết được đưa ra. Thứ nhất, những kẻ bắt cóc là những kẻ chuyên nghiệp. Thứ hai, những kẻ bắt cóc khá quen với ngôi nhà, vị trí căn phòng nơi cậu bé ngủ. Đại tá Schwarzkopf lại cho rằng những kẻ bắt cóc này không chuyên và có thể là băng nhóm tội phạm địa phương. Số tiền chúng yêu cầu khá khiêm tốn so với gia đình Lindbergh.

Song song với việc điều tra, các quan chức ở New Jersey đã công bố treo thưởng trị giá 25.000 USD, gia đình Lindbergh cũng treo giải thưởng trị giá 50.000 USD, nếu tìm thấy manh mối của vụ án.

Ngày 4/3, bức thư đòi tiền chuộc lần thứ hai được gửi đến. Lindbergh bị cảnh cáo về sự tham gia của cảnh sát trong vụ này, và thông báo rằng vì cảnh sát đã nhúng tay vào vụ này nên số tiền chuộc đã được nâng lên mức 70.000 USD. Trên bức thư này vẫn có biểu tượng những vòng tròn được lồng vào nhau. Những ngày sau đó, những lá thư vô danh cứ lần lượt được gửi đến nhà Lindbergh.

Trong khi Lindbergh và những đồng nghiệp của mình đang gấp rút điều tra thì đại tá Lindbergh có những hành động riêng của mình bởi quá sốt ruột về sự biến mất của cậu con trai.

Lúc này, ông John F. Condon – một giáo viên 72 tuổi đã nghỉ hưu ở New York cũng là một trong những người rất quan tâm đến vụ án của cậu bé Lindbergh. Ông đã viết một lá thư cho một tờ báo địa phương rằng ông muốn tình nguyện làm trung gian giữa bọn bắt cóc với gia đình vị đại tá.

Đáng ngạc nhiên là chỉ 3 ngày sau đó, ông Condon nhận được một lá thư từ những người tự xưng là kẻ bắt cóc, yêu cầu ông giữ vị trí trung gian giữa họ và gia đình Lindbergh.

Cuộc gặp tại nghĩa trang

Ngay khi được yêu cầu làm trung gian, John F. Condon đã đăng một tin quảng cáo thông báo cho nhưng kẻ bắt cóc biết số tiền đã được chuẩn bị và ông cũng đã sẵn sàng..

Ngày 12/3/1932, Condon nhận được một lá thư chỉ dẫn được viết tay do một người lái taxi gửi đến. Condon đã sắp xếp một cuộc gặp với một trong những kẻ bắt cóc tại nghĩa trang Woodlawn, Bronx.

Tại cuộc gặp, vì trời quá tối nên ông không thể nhìn rõ mặt nghi phạm mà chỉ biết rằng tên bắt cóc nói giọng Đức. Condon cho biết hắn tự xưng là “John” và tuyên bố mình là thành viên của một băng đảng người Scandinavia. Hắn nói rằng đứa trẻ đang ở trên một chiếc thuyền và sẽ trả lại nó khi lấy được tiền chuộc.

Tuy nhiên Condon tỏ ý nghi ngờ và yêu cầu được nhìn thấy cậu bé trước khi giao tiền. Tên bắt cóc hứa sẽ gửi cho Condon bức ảnh chụp cậu bé đang ngủ.

Vài ngày sau, đúng như lời hứa, Condon đã nhận được bức ảnh chụp cậu bé Charles đang ngủ và bộ đồ ngủ của cậu được gửi qua đường bưu điện. Vợ chồng vị đại tá khẳng định đó là đồ của con trai mình. Ngay sau đó, Condon liền đăng tin lên báo: “Hiện tại tiền đã sẵn sàng. Sẽ không có cảnh sát đi theo. Tôi sẽ đến một mình như lần trước”.

Phi vụ lừa đảo

Gia đình Lindbergh và cảnh sát đã ủy quyền cho Condon dàn xếp khoản tiền chuộc. Khoản tiền chuộc được đặt trong một chiếc hộp được thiết kế đặc biệt để có thể dễ dàng nhận diện trong tương lai. Số sê-ri của mỗi tờ tiền cũng đều đã được ghi lại để tiện theo dõi sau này.

Đêm 2/4/1932, Lindbergh lái xe đưa Condon đến vị trí đã hẹn, cũng vẫn là một nghĩa trang. Condo một mình vào khu nghĩa trang trong khi Lindbergh đợi trong xe với một khẩu súng lục.

Đi một vòng quanh khu nghĩa trang, không thấy ai xuất hiện như đã hẹn, Codon quay lại cổng nghĩa trang nơi đại tá Lindbergh đang đợi thì bất ngờ có một giọng nói vang lên, cả Condon và đại tá Lindbergh đều nghe thấy. “Này ông kia, hãy qua bên này.”

Condon quay lại phía trong nghĩa trang nhưng không có ai mà chỉ có một tờ giấy hướng dẫn. Condon làm theo hướng dẫn đi sâu vào nghĩa trang. Một người đàn ông đang đứng sẵn ở đó.

Condon cùng người đàn ông lạ mặt trao đổi với nhau về khoản tiền chuộc. Condon quay lại xe để lấy tiền và trao cho hắn đủ số tiền yêu cầu để nhận được một tờ giấy hướng dẫn đến nơi giữ cậu bé. Theo đó, họ biết được cậu bé Lindbergh đang trên một con thuyền có tên là Nelly. Nghi phạm thông báo rằng cậu bé đang được hai người phụ nữ chăm sóc cẩn thận và không cung cấp thêm thông tin nào khác.

Người đàn ông lạ biến mất khỏi nghĩa trang. Condon quay trở lại xe của đại tá Lindbergh rồi cả hai lao xe đi trong đêm, sau khi đã thông báo cho cảnh sát. Tuy nhiên, khi đến nơi, chẳng có con thuyền nào như chúng đã nói và cậu bé Charles cũng không thấy đâu. Họ nhận ra rằng đây chỉ là một trò lừa đảo.

Trong khi vụ án rơi vào vô vọng thì ngày 12/5, một tài xế vô tình phát hiện thi thể một bé trai. Kết quả khám nghiệm cho thấy đó chính là cậu bé Lindbergh. Thi thể được tìm thấy tại khu rừng ngoại ô thành phố Trenton, bang New Jersey, cách nhà đại tá Lindbergh khoảng 20 km.

Kết quả bất ngờ

Sau khi tìm thấy thi thể của con trai vị đại tá, các chuyên gia lập tức bắt tay vào khám nghiệm tử thi. Kết quả đã gây bất ngờ với nhiều người. Theo đó, nạn nhân đã chết được khoảng 2 tháng, nghĩa là chỉ vài ngày sau khi vụ bắt cóc xảy ra.

Cậu bé bị đánh mạnh vào đầu, hộp sọ có một lỗ thủng lớn và một số bộ phận cơ thể không còn nguyên vẹn. Bác sĩ kết luận nguyên nhân tử vong là do cú đánh vào đầu. Không có bất cứ dấu vết nào liên quan đến hung thủ được tìm thấy tại hiện trường nên cảnh sát nhận định nạn nhân đã chết trước khi bị mang đến đây.

Tổng hợp lại tất cả thông tin, cảnh sát đặt ra giả thiết hung thủ có thể rất quen với gia đình Lindbergh, biết rõ thói quen của họ, thậm chí còn biết rằng tuần đó họ sẽ không trở về vào ngày 1/3 do con trai bị ốm. Ngoài ra, chúng lại còn biết chính xác phòng của nạn nhân.

Từ đó, mọi nghi ngờ tập trung vào Violet Sharpe – người giúp việc của gia đình Morrow – ông bà ngoại của nạn nhân. Violet là một trong những người biết rõ việc thay đổi trong kế hoạch của gia đình Lindbergh. Ngoài ra, Violet cũng có một số hành động bất thường vào ngày xảy ra vụ bắt cóc. Người phụ nữ này tỏ ra lo lắng và đặc biệt tối hôm đó, Violet có ra ngoài cùng với một người đàn ông. Nhưng khi được hỏi, cô lại không thể nói được đó là ai.

Bị điều tra trong gần 2 tháng sau đó, Violet có những dấu hiệu bất thường về tâm lý. Một ngày, khi các thám tử cho biết sẽ tới gia đình Morrow hỏi Violet một số thông tin khác, Violet nói với những người khác rằng không thể chịu thêm áp lực này và một lúc sau, gia đình Morrow phát hiện Violet đã chết trong phòng do uống thuốc tự tử.

Cái chết của Violet khiến nhiều người nghĩ rằng đây chính là một trong những thành viên trong băng nhóm bắt cóc và sát hại con trai nhà Lindbergh. Tuy nhiên, một số nhân chứng sau đó xác nhận cho bằng chứng ngoại phạm của cô vào hôm xảy ra vụ việc.

Lộ diện nghi phạm

Không còn manh mối nào khác, cảnh sát bắt đầu theo dõi số sê-ri của những đồng tiền chuộc mà Condon đã giao cho kẻ bắt cóc. Một cuốn sách nhỏ có chứa các số sê-ri trên các đồng tiền đã được cung cấp cho các doanh nghiệp và ngân hàng.

Không mất nhiều thời gian, cảnh sát nhận thấy các đồng tiền bắt đầu xuất hiện rải rác. Trong khoảng thời gian 30 tháng, cảnh sát nhận thấy rằng nhiều đồng tiền trong khoản tiền chuộc xuất hiện với tần suất dày đặc ở phía đông của Manhattan. Đặc biệt hơn nữa, chúng đã được chi tiêu dọc theo tuyến đường tàu điện ngầm Lexington Avenue.

Ngày 15/9/1934, một người bán hàng tại trạm xăng đã nhận được tờ 10USD có số sê-ri được lưu ý. Vị khách hàng sau đó lái xe đi nhưng người bán xăng đã cẩn thận ghi lại biển số xe.

Cuối cùng, sau nhiều ngày tìm kiếm, cảnh sát đã biết được người khách hàng tên là Bruno Richard Hauptmann, một người nhập cư trái phép tới sống ở vùng Bronx được hơn 10 năm và hiện làm nghề thợ mộc. Điều đặc biệt, người đàn ông này nói giọng Đức.

Khi cảnh sát tiếp cận, trong ví Hauptmann vẫn còn một tờ giấy bạc 20 USD cũng có số sê-ri nằm trong khoản tiền chuộc. Hauptmann lập tức bị bắt và thẩm vấn nhưng một mực khẳng định mình không có bất kỳ liên quan nào tới vụ bắt cóc và sát hại nạn nhân nhỏ tuổi.

Vật chứng khó chối cãi

Tại nhà của nghi phạm, các điều tra viên đã không mất nhiều thời gian để tìm thấy hơn 14.000 USD tiền mặt giấu trong gara có số seri trùng với số tiền mà đại tá Lindbergh đã giao cho tên bắt cóc.

Ngoài ra, nhiều chứng cứ khác cũng được thu lại bao gồm số điện thoại và địa chỉ nhà ông John F. Condon được viết lên tường bằng bút chì, một cuốn sổ tay có bản vẽ phác thảo chiếc thang mà sau khi so sánh, cảnh sát nhận thấy nó tương tự như chiếc thang mà hung thủ để lại hiện trường nhà đại tá Lindbergh.

Khám xét kỹ hơn, cảnh sát cũng thu được trong xưởng gỗ của Hauptmann một vài thanh gỗ cùng loại với chiếc thang ấy, kèm theo đó là một đôi găng tay, hai cái túi lớn bằng vải có dính đất mà theo nhận định nghi phạm đã sử dụng để bọc vào giày nhằm xóa dấu vết.

Lục lại hồ sơ của nghi phạm, các nhà điều tra nhận thấy Hauptmann nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ năm 1923 khi 23 tuổi. Trước đó, năm 17 tuổi, nghi phạm này từng tham gia Thế chiến thứ nhất. Sau chiến tranh, Hauptmann đã có thời gian đi tù vì trộm cắp tài sản. Trong phi vụ trộm cắp của mình, Hauptmann sử dụng một chiếc thang và cũng để lại hiện trường. Sau khi nhập cư vào Mỹ, năm 1925 Hauptmann kết hôn với một người hầu bàn và làm nghề thợ mộc.

Những lời khai mâu thuẫn

Khi bị bắt để thẩm vấn, Hauptmann liên tục phủ nhận những cáo buộc dành cho mình. Nghi phạm này khai rằng số tiền đó mình nhận từ một đối tác thân thiết tên là Isador Fisch, nhưng Fisch đã quay lại Đức vào tháng 12/1933 và đã chết vì bệnh lao sau đó vài tháng. Căn nhà mà Hauptmann đang ở là nhà của Isidor Fisch từng thuê sau đó để Hauptmann tiếp tục thuê lại và khi Hauptmann dọn về thì tất cả những thứ cảnh sát tìm thấy đã có sẵn ở đó.

Giải thích về địa chỉ nhà của ông Condon, Hauptmann cho biết: “Khi vụ bắt cóc xảy ra, tôi có đọc thông tin trên báo và cũng giống như nhiều người dân khác, tôi quan tâm đến nó nên đã ghi lại địa chỉ của ông Condon”. Tuy nhiên, điều Hauptmann không lý giải được là tại sao lại có số điện thoại của Condon vì báo chí không hề công khai số máy này. Về bản phác thảo chiếc thang trong cuốn sổ tay, Hauptmann giải thích: “Có thể một đứa trẻ của nhà Isidor Fisch đã vẽ nó. Khi ông Fisch về Đức, họ vứt nó lại”.

Ngoài ra, dù đã hơn hai năm kể từ lần nghe thấy giọng nói của tên tống tiền ở nghĩa trang, nhưng cả đại tá Lindbergh và ông Condon đều vẫn nhớ và xác nhận giọng nói của Hauptmann chính là giọng nói mà mình đã từng nghe.

Cuối cùng, Hauptmann được yêu cầu lấy mẫu chữ viết tay. Với những bức thư đòi tiền chuộc, 8 chuyên gia về chữ viết tay được mời giám định và cả 8 người đều kết luận: “Do cùng một người viết ra”.

Với tất cả những bằng chứng này, thẩm phán đã quyết định Hauptmann sẽ bị dẫn độ về New Jersey, phải đối mặt với việc bị kết án bắt cóc và giết cậu bé Lindbergh. Thời điểm dẫn độ là gần nửa đêm nhưng trên suốt quãng đường ấy, những tiếng la ó của rất nhiều người dân đứng hai bên đường gần như không dứt.

error: Content is protected !!