Nhìn nước miếng mà tường gia biến
Xem lá “xâm” gây chuyện phong tình.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Từ gặp nàng nơi Bảo Anh tự vì, mình phải lòng nàng mà mưu sự cải trang giả cuộc vào dinh bán ngọc, nàng đã hết lòng thương mà hậu đãi, lại tin ta là phụ nhân nên quá nghe lời mà ra chông chạ; nàng chưa hề có một phút nào nghĩ cho ta là đờn ông, cùng là yêu ta vì tình nào khác.
Nếu nay ta mà thừa lúc chén say, canh vắng nàng đương mê giấc, mà ra sức trộm đào cắp mận, chi cho khỏi lúc leo lên vịn nhánh, rung nhành long cội mà nàng hay. Như nàng thuận tình chăn gối vui cuộc gió trăng thì chẳng nói chi, chí như nàng là một người đờn bà trinh tiết trao mình, chữ dạ gìn vàng giữ ngọc, nàng không thuận, la ó lên thì mới sao?
Thân ta phải ra sao? Ngoài cửa có quân canh, trong dinh toàn thế nữ, ta mới liệu sao thoát thân cho khỏi? Thế thì tánh mạng ta còn gì? Thân danh ta còn gì? Mạng ta vì nàng mà thác cũng đành, ngặt nỗi cái tên tuổi nầy, cũng là bực râu mày, anh hùng tứ hải, há cam chịu di xú bách niên vậy sao? Nghĩ tới đây người bán ngọc dùng dằng, dường có chỗ ăn năn chừa cãi.
Thật, người bán ngọc nghĩ tới điều nguy sự hiểm, nhục nhã tông môn mà ngả lòng muốn bỏ; xét vì, đời nào cũng thế, nước nào cũng thế, làm người ở trong xã hội có chi hổ thầm thẹn trộm, nhơ nhuốc thân danh cho bằng cường dâm phụ nữ trong lúc thâm canh; lại thêm, cường dâm một người đờn bà tầm thường dân dã, dầu nó không thuận tình đi nữa thì bất quá chổi cùn chổi quét nó đơm, cho nhục đó vậy thôi, không đến đỗi gì thiệt mạng; chí như cường dâm nhầm một vị mạng phụ như Hồ phu nhơn đây – thuận thời chơi lý giỡn đào, nghịch thì chàng ắt nạp vào bụng ta – nàng mà không thau65n tình trăng gió, la lên, vỡ lỡ xa gần, thì ắt lưỡi gươm vô tình không hay dung vị.
Không lý vì một cuộc trăng gió gọi là mà coi mạng nhẹ tơ lông, đành phận, bách niên di xú. Nghĩ vậy nên người hồi tâm định tánh quyết xa lánh tội tình; nhưng bởi lương tâm thì muốn bỏ, mà cái lòng ta dâm lại chẳng chịu buông, cứ chằng buộc hai con mắt của người châm chỉ ngó xuống hoài, rồi lại còn dục thúc lòng người xiêu theo sắc dục; nên nỗi dâm tâm khun dằn, lửa tâm càng dập, làm cho người quên phức những lời khuyên nhủ của lương tâm.
Bấy giờ người nghe theo lòng tà dâm, mà không, tưởng đến điều nguy sự hiểm, cũng bởi lòng tà dâm sức nó mạnh hơn lương tâm; mạnh cho đến đỗi nó khiến sao người hay vậy, dầu là điều quấy lẽ hư đi nữa, người cũng phải xiêu theo, không dám cãi lẽ nào cho đặng. Thoảng lại người bán ngọc, tuy là tay tầm thường học vấn, chớ cũng là bực trí thức ở đời, rõ thung đạo lý: cơn bình thường người biết rõ điều hư sự thiệt điều phải lẽ quấy, đen trắng phân minh; đến khi bị cái lòng tà dâm nó dục thúc tới rồi, tối mắt điên đầu, quên hết cách cư xử ở đời, không phân biệt nên hư phải quấy.
Bởi vậy trong lúc tà dâm chen lấn với lương tâm, tranh giành với lương tâm, thì người thấy bên thưởng bên phạt rõ ràng, mà bên phạt lại có lưỡi gươm trần sáng tợ như dao mài, để mà giết kẻ cường dâm phụ nữ; thì có lý đâu người lại chẳng rõ biết khun thì sống bống thì thác, hễ xiêu theo lòng tà dâm, thì tránh chẳng khỏi lưỡi gươm vô tình phân xử; mà cớ sao người lại nghe theo lòng tà, dám liều thác mà noi đàng quấy.
Nhưng bởi sức tà dâm nó mạnh hơn lương tâm, nó ép uổng người phải theo, dẫu rằng thấy gươm treo trước mắt, cái chết sau lưng cũng không ghê gớm. Cho nên khi người xiêu theo tà dâm, nhứt định chẳng bỏ qua tình tệ, người dám buông lời thầm nói rằng: “Gối chung đầu dầu có thác, dạ cũng vui”.
Thế thì lương tâm nào còn theo mà cản đãng nữa đặng. Mà thảm lúc người xiêu theo lòng tà, quyết kế bẻ đào hái mận, giờ khắc lại thúc tới bên lưng; dường như có tiếng vẳng vẳng bên tai, hối người rằng: “ Sáng rồi, sáng rồi! Trống gần tàn canh, cớ sao còn chưa tính!”.
Làm cho người quính trong ruột, bộ mặt dáo dác, đôi mắt láo liên; ngó lên nhìn đồng hồ, ngó xuống nhìn phụ nhân, lòng bấn loạn, đến đỗi:
Giọt châu thảnh thót quyển bào,
Mầng mầng sợ sợ biết sao là tình!
Vẫn biết lòng tà dâm mạnh hơn sức người, nên người dầu bực nào vươn tới nó rồi cũng khó mà cượng nổi; song mạnh vậy chớ nó không thể che lấp nổi chỗ nghi sợ của người; nên hễ nó mà dục thúc tới chừng nào, thì lòng nghi sợ lại càng thêm, làm cho người tay phải run, lòng phải khớp.
Bởi vậy trước khi muốn xoa tay vin nhánh, người bán ngọc cúi xuống hun Hồ phu nhơn mà thử ý coi thức ngủ thể nào. Thấy sao hun qua hun lại mấy phen mà Hồ phu nhơn không hay, người mới lần giả ý kêu:
– Hồ phu nhơn, Hồ phu nhơn!
Kêu năm bảy tiếng mà Hồ phu nhơn cũng không cục cựa. Giờ đã đến rồi, còn nghi sợ nỗi gì mà dùng dằng đợi mãi. Người bán ngọc bèn …
Bỗng nghe có tiếng la hoảng:
– Ủa! ủa! ủa! Hay cho hiền nương! Ủa! Hay!
Tưởng bây giờ là gao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
………………………………….
Bản gốc bị mất vài trang ở đoạn này
…………………………………
Từ đây, Hồ phu nhơn cấm tuyệt bầy thế nữ ra vào, trừ ra có một con, tên là Đào Anh, là tay trong, theo hầu đỡ tay chơn Hồ phu nhơn, đặng lòng Hồ phu nhơn thương yêu như ruột mà cũng bị cấm, khi nào có lịnh đòi vô thì mới đặng vô thôi.
Hồ phu nhơn lại dặn Đào Anh từ đó về sau không dọn ăn nơi phòng ăn nữa, mà phải sửa sang bàn ghế dọn trong phòng ngủ; lại mỗi bữa ăn đều phải dọn đủ hai người ăn luôn luôn.
Bởi vậy, Hồ phu nhơn với người bán ngọc bữa nào cũng:
Chén hà sánh giọng quỳnh tương
Dải là hương lan bình gương bóng lồng
Bữa sớm bữa tối gì hai người cũng ăn uống vui say với nhau trong phòng; mà nhứt là bữa tối lại càng. Đêm nào chí những đêm nấy, hai người vui say tới canh gà cũng chưa mãn tiệc. Mà hễ mãn tiệc rồi, thì đem nhau đi nghỉ, xem tình khắng kít với nhau cũng dường, hải đường mởn mởm nhành tơ, ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
Mà hễ hai đàng khắng khít nhau, say đắm nhau không nỡ rời nhau chừng nào, thì cái tình nguyệt hoa, hoa nguyệt lại càng thêm não nồng chừng nấy; làm cho hai đàng một tỉnh mười mê, ngày xuân lắm lúc. Hồ phu nhơn không cho người bán ngọc vể, cứ cầm ở trong phòng vui say mãi thế.
Ngày lụn tháng qua, hai đàng, mập mờ trong cuộc truy hoan, càng quen thuộc nết càng dan díu tình, say mê nhau dan díu nhau cho đến đỗi quên sợ lậu tệ tình; có nhiều khi trước mặt thế nữa, cũng dám quen nết bốc rời, nói cười ngả ngớn; làm cho thế nữ, ban đầu còn lấy làm lạ mà sanh nghi, sau rồi để ý tìm tòi, mới rõ thấu tình hình, rắn có chơn hẳn thật. Biết thì biết vậy, chớ cũng cứ cất để trong lòng mãi thôi, há dám dĩ hơi tiết lậu.
Một đêm kia, khi sánh giọng quỳnh tương rồi hai đàng mới trướng tô hiệp mặt; Hồ phu nhơn hỏi người bán ngọc:
– Mình là người ở tỉnh nào đến đây? Thấy tôi thì biết tôi là gái có chồng, lại là mạng phụ, chẳng hay ai bày mưu chỉ kế cho mình mạo hiểm cải trang, dám thâm nhập giả hình vào dinh dâm loạn. Tôi mà chẳng nghĩ, tôi tri hô lên, hay là rủi chừng Hồ công tôi về mà đổ bể tới tai người, chẳng hay mình liệu sao nói cho tôi nghe thử?
Người bán ngọc ngần ngừ giây phút rồi đáp:
– Bây giờ sự đã dường nầy,
Phận hèn dầu rủi đầu may tại người.
Chớ tôi có biết liệu sao cho vẹn. Vả lại mình với tôi đã cùng nhau trong phòng nầy gây cuộc gió trăng, sớm đào tối mận, tính lại thì cái tình ân ái mặn nồng cũn đã sáu trăng, nay mình thật dạ yêu vì mà hỏi đến, lẽ nào tôi còn dám giấu một mảy lòng, không tỏ thật lòng vàng đá.
Tôi vẫn là người ở tỉnh Quế Châu họ Tô, tên Thường Hậu con nhà phú giàu có lớn; chẳng may, cha mẹ mất sớm để sự nghiệp lại trăm muôn. Rủi lại gặp buổi ly loạn cuộc đời, thay ngôi đổi chúa, công danh chẳng khác nào như bọt nước chảy giòng sông; nên tuy tôi cũng có học đặng ít nhiều bút nghiên thì mặc dầu, chẳng muốn công hầu mà trót phải vào lòn ra cúi.
Mà cũng không lý ăn no rồi ở nhà làm mặt nghiệp chủ, lâu ngày cũng chẳng vui, tôi mới mượn cuộc bán buôn đi xứ kia xang xứ nọ trước là xem phong cảnh sau chọn người nội trợ tề gia; thật tôi đi cũng nhiều tỉnh rồi mà chưa gặp đặng người vừa ý.
Tôi nghe đồn tỉnh Tô Châu là một tỉnh người xinh cảnh lịch, lắm tay quốc sắc thiên hương, nghe vậy tôi lấy làm mầng lòng, dời chơn qua đó. Tới rồi; thấy rồi, mới hay là tiếng đồn không sai.
Thật không đâu người thanh cảnh lịch cho bằng đất Tô Châu. Tôi mượn cớ bán ngọc mà sang chơi, nay tính lại cũng hơn tháng ngoài, tôi dạo đả khắp non sông, rảo cùng thành phối; cho tới một chốn làng quê, nhỏ nhoi hơn hết, tôi cũng có thể bước tới chơi; cho nên nhân vật cảnh tình ở đất Tô Châu này không còn một nơi nào mà tôi chưa nếm trải.
Ngoài ra, tôi còn đặng những hàng vương tôn công tử, phú hộ, hào gia hậu đãi tôi; nên lúc tôi mới đến đây, họ thay phiên với nhau mà mời thỉnh tôi, thết đãi tôi, kể đà không ngớt.
Thường đêm hội yến, mà đêm nào cũng sáng đêm nấy; song chẳng chi khác hơn là trong yến diên thết đãi, ngoài nữ nhạc ca xang; vui đầy tháng, cười trót đêm, nhắm lại với bọn ca nhi ở đất nầy, ai lại chẳng trọng vì tài, mê vì sắc.
Hồ phu nhơn:
– Vậy sao mình lại chẳng chọn một người xinh đẹp hơn hết mà chuộc về tề gia nội trợ? Để đi …
Tô Thường Hậu:
– Mình biết tôi tìm người kết tóc xe tơ, xứng đáng duyên kim phận cải, há phải gặp cơn túng phải quyền chăng mà đem vàng chuộc ca nhi đem làm giai ngẫu? Bởi tôi chơi hoa, nếm biết mùi hoa, cầm cân cho biết cân già cân non, nên tuy trong những khi vui hạnh, khi nết người, khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa, tôi mê sa lắm lúc thì mặc dầu, sáng ngày rã tiệc rồi thôi, ai ra đàng nấy; xét kỹ bất quá là một cuộc vui gượng kẻo là, ai có mặn mà chi đó.
Nếu tôi dám lạm dụng ca nhi là tri âm thì thôi, tôi có đi đâu mà lạc bước tới chùa Bảo Anh cho vướng phải dây oan buộc trói.
Bởi tôi không thể lấy mão tròng chơn, dép đem mà gội đầu, để miệng thế khôn hầu xét nét, lại nghe dịp thượng ngươn nấy, tại cảnh chùa Bảo Anh, dập dìu tài tử gia nhân, ngựa xe như nước áo quần như nêm, nên tôi mới bương bả tới đó, quyết chí tầm giai nữ họa là có gặp.
May đâu, lúc này trời cũng chiều lòng người, khiến cho tôi vừa đến chùa Bảo Anh tôi lại gặp mình, rõ ràng mặt hương trời sắc nước.
Hỏi thăm ra, mới hay mình là mạng phụ Hồ Quốc Thanh, khó nỗi gây tình trăng gió; nhưng mà tấc lòng trộm ước thầm ao nầy quản bao. Một điều làm cho tôi ngại ngùng hơn hết là không biết ai mà hỏi thăm, hỏi cho biết chút phận bèo mây, có may mắn mà đặng đài gương soi đến. Tính không ra kế chi, tôi không biết liệu sao, túng phải đánh liều, vì có nghe danh chùa Bảo Anh rất linh thiêng, tôi mới đánh liều, vào vái lạy xin xâm cầu hỏi.
Hồ phu nhơn:
– Nói vậy khi tôi vái lạy cầu cho chồng tôi bền quân thắng trận đó, mình cũng có vào quỳ mà xin xâm nữa sao? Mình xin xâm tốt xấu, lành dữ thế nào nói cho tôi biết; thử coi cái cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên nầy, khiến cho đôi đứa mình thầm dấu, trộm yêu như vầy đây có điều gì nũa?
Tô Thường Hậu:
– Nếu lời sấm mà mách cho tôi gần dữ xa lành, thì thôi, tôi cũng đã đành ôm dạ tương tư cho rồi một kiếp; chớ tôi có dám đèo bòng làm chi cho không thành mà phải bia danh miệng thế. Để tôi đọc lời xâm cho mình nghe bàn thử coi lẽ nào; có in như ý tôi đã bàn vậy chăng?
Lời sấm nói vầy:
Trần thế kiết thành duyên,
Kim triêu nhậm tiền khiêng:
Khẩu như bình thủ định,
Mạt thổ tại nhân tiền!
Mình nghĩ coi có phải bốn câu xâm nầy theo ý tôi bàn – dạy rằng mình với tôi, vì tiền khiêng túc trái mà có duyên gặp gỡ chăng? Nhớ hai câu trên dạy vậy đó, tôi mới dám đánh liều nhắm mắt đưa chơn, mạo hiểm, vầy dươn oan trái.
Còn như hai câu sau, tôi tưởng chẳng chi lạ hơn là dặn tôi có hiệp nghĩa cùng mình đặng rồi, phải bưng kín miệng bình, đừng lộ một tiếng chi trước mặt người cho lậu sự.
Hồ phu nhơn:
– Theo ý tôi không phải vậy đâu. Hai cây trên chỉ rằng mình với tôi có duyên gặp gỡ, thì đã đành; chí như hai câu dưới, mà nhứt là câu chót: Mạt thổ tại nhân tiền, đó, chẳng phải dặn mình bưng kín miệng bình, đừng cho lậu tiếng; mà hẳn thật dặn mình – cứ theo chữ mà bàn – dặn mình có đặng thỏa nguyện rồi đừng kiêu mà khạc nhổ vào mặt người, chọc cho người giận hờn mà gây thù oán, tức là, cứ trong ý tứ mà suy, lời sấm dặn mình phải giữ lấy mình, chớ có để người lậu sự mà lâm tai họa.
Câu xâm ấy trúng ý tôi, in như lời tôi đã hỏi mình, rủi ra chồng tôi mà hay, thì mình phải tính sao cho vẹn?
Tô Thường Hậu:
– Nói vậy có khi mình bàn câu chót đó trúng hơn tôi; nhưng mà theo ý tôi xét, mình với tôi, tuy là tình cờ gặp gỡ, thì mặc dầu, chớ cái tình dan díu mặn nồng xét kỹ còn hơn nghĩa vợ chồng yêu ấp; nên lòng tôi chẳng có một phút nào tưởng cho cái cuộc sớm đào tối mận nầy là cuộc trăng gió gọi là, mà tôi lại tưởng cho là một cuộc đá vàng, một thác mới xa nhau, sống chẳng kể keo tan hồ rã. Cho nên từ phen đá biết tuổi vàng, tôi hằng thề nguyện cùng mình một lời:
Dầu cho giải kiết đến điều,
Thì đem vàng đá mà liều với thân.
Tô Thường Hậu dứt lời, Hồ phu nhơn liền vói tay véo miệng Tô Thường Hậu mà trơ mắt ngó, nheo miệng cười duyên, tỏ tình thương dan díu. Tô Thường Hậu tiếp thuật sự mình cậy lão bà làm mai không đặng, cho tới con hiệp mặt hoa đào, rồi hai đàng mới vầy, tiệc vui say canh vắng.
Hồ phu nhơn cứ việc biểu Tô Thường Hậu cải trang mà chông phọng hết năm này sang năm nọ. Chung chạ như vậy trót đã hai năm chẳng phải là không ai hay, Đào Anh biết, mà chẳng hề dám hở môi cho lậu tiếng. Có nhiều khi, vì cùng nhau ràng rịt trong phòng hết ngày này sang ngày nọ, chẳng hề thấy rời nhau một bước, tù túng quá mà hóa ra lạc cực sanh ai.
Tô Thường Hậu mới bày, khi thì thưởng mai, khi thì tắm biển. Ban đầu Hồ phu nhơn còn e, chẳng dám làm lộng quá; nên mỗi khi Tô Thường Hậu than buồn, thì nàng, cực chẳng đã nặng vì tình mà phải chìu lòng, toàn cho thế nữ dọn bàn bày tiệc nơi vườn, để canh vắng cùng nhau vui chén.
Bởi vậy lúc trời có trăng hai người thường hay ăn uống ngoài vườn; có lúc thì chén rượu; lúc lại cuộc cờ, khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên. Trừ con Đào Anh ra, bao nhiêu thế nữ trong dinh thấy thì hay thấy, chớ ít ai hay biết; phần nhiều lại tưởng cho Hồ phu nhơn cầm người đờn bà bán ngọc ở lại chơi cho có bạn, cùng là mượn mỏ làm vui, trong lúc cô chiếc bóng phòng, nệm nghiêng gối chích vậy thôi; mấy ai thấu nổi.
Bởi vậy Hồ phu nhơn với Tô Thường Hậu tưởng cho đoàn thế nữ không biết gì, mới vụn mà hun hít như chơi, lả lơi cười nói. Nhiều khi còn dám cười phấn cợt son, ngâm hoa ngợi nguyệt trước mặt đoàn thế nữ mà không chút gì ngần ngại.
Lần lần, Tô Thường Hậu xui giục riết, Hồ phu nhơn phải nghe theo mà dạo rừng tắm biển. Trong những lúc du ngoạn như vầy đây, anh én chán chường kể sao xiết nỗi; nói tắt một lời người mà mang nặng gánh tình, dầu có đi tới đâu, thì cũng hai vai hoằng hoại.
Thoảng lại câu thanh khí lẽ hằng, lạ gì phải kể. Một điều nên nói là một đêm kia, người người đồng lòng mua vui, rủ nhau đi coi hát. Tô Thường Hậu cũng cứ cải trang như thường, mà lại có ý tô điểm cho tạc hình phụ nhơn hơn nữa cho thiên hạ trông vào không biết, cho dễ mà kề cận Hồ phu nhơn giữa chốn muôn mắt người.
Vào rạp, lẽ cố nhiên, hai người đều ngồi bên phía nữ. Ngồi kề nhau mà coi tới nửa đêm không sao, chừng hết canh ba, đờn bà con gái ngồi gần lầm tưởng Tô Thường Hậu là phu nhơn, nên xúm làm quen nói chuyện.
Trong bọn đờn bà con gái ấy lại có một mảnh đào thơ xinh đẹp vô cùng, nhan sắc chẳng kém gì Hồ phu nhơn, thêm diện mạo phương phi, cho đến đờn bà trông vào cũng yêu cũng muốn; cô nầy thấy Tô Thường Hậu xinh đẹp lại ưa chuyện vãn thường hơn.
Hồ phu nhơn thấy vậy bất bình, lửa lòng hừng dậy; đang xem hát lúc vui, ai nấy đều tươi cười, duy có Hồ phu nhơn buồn tình xụ mặt, lòn tay trong tối mà ngắt véo Tô Thường Hậu nhảy nhỏm; làm sao Tô Thường Hậu phải sợ mà ngó lãng chỗ khác, chẳng dám ngó ngay cô nọ mà nói thêm tới một tiếng gì.
Vậy mà Hồ phu nhơn cũng chưa vừa lòng, còn ngồi sụt sụt máu ghen, giây phút quùng quàng bỏ ra đi về. Tô Thường Hậu phải theo nối gót.
Từ ra hát về tới dinh, Hồ phu nhơn ngồi mặt đầm đầm, miệng không nhích mép. Có mặt thế nữ, Tô Thường Hậu không dám tiếng gì, về tới dinh, Hồ phu nhơn xuống xe đi thẳng vào phòng, Tô Thường Hậu cũng theo, năn nỉ ỷ ôi, kiếm lời khuyên dỗ.
Nhờ có nghề riêng, thung thạo cách đờn bà, nên tuy Hồ phu nhơn giận lẫy hờn ghen dữ vậy mặc dầu, về tới phòng rồi, không mấy phút đã thấy hai người vầy lại bàn ăn uống nói cười, thương yêu như cũ!
Ngày tháng như thoi đưa, hai đàng mãn có vẻ mặn nết ưa, đầu ấp tay gối, cùng nhau lắm lúc vui say mà quên nỗi buồn rầu rẻ đôi, xẻ nửa, xa cách chia phui, bỗng đâu, một bữa kia, hai người đang giấc trưa, xảy nghe:
Ngất trời sát khí đằng đằng,
Đầy sông kinh ngạc, chập đàng giáp binh.
Hai người vừa hay, thì vừa có Đào Anh vào báo rằng có lịnh Hồ công về gần tới dinh; Tô Thường Hậu với Hồ phu nhơn, lúc bấy giờ đều đứng sững sốt, trơ mắt nhìn nhau, lỡ khóc lỡ cười, giọt dài giọt vắn; hai người mở chẳng ra lời. Giây phút Tô Thường Hậu mới bước lại cầm tay Hồ phu nhơn và khóc và than rằng:
– Mình ôi!
Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ!
Than rồi gục đầu vào ngực Hồ phu nhơn mà khóc òa, kể nỗi sự tình cách bức. Hồ phu nhơn cũng đổ gục như chan không xiết đau lòng cơn xẻ nửa. Nàng lau lụy mà rằng:
– Việc gấp như lửa cháy mày, mình chẳng nên bận bịu tấc lòng, dùng dằng chi nữa. Mình hãy mau dời chơn ra khỏi dinh nầy, kiếm nơi đình trú; mình ẩn mặt mà đợi tôi trong năm ba ngày; yên việc nhà rồi tôi sẽ liệu kế nào hay, đôi ta giáp mặt; xin mình hãy an lòng. Bấy giờ đây, mình chẳng nên diên trì, vì hễ mình chậm bước để Hồ công tôi về tới dinh, gặp mặt thì khó nỗi. Vậy mình mau tạm lui ra. Ra ngoài, mình kiếm đặng chỗ ở an rồi, mình chịu kho đón con Đào Anh mà nhắn tin vào cho tôi hay; mình ôi, dẫu rằng biển cạn non mòn, con tằm đến chết cũng còn kéo tơ!
Tô Thường Hậu nói:
– Ở đây, tôi thật không quen biết với ai, chỉ quen có một ông thầy ở chùa Bảo Anh, vậy để tôi lên đó náu nương cho an phận đợi chờ, mà tôi tưởng cũng là tiện cho mình, đối việc dưng hương, sao sao trong mươi bữa nửa tháng mình cũng ráng mà tới đó một lần, cho tôi gặp mặt kẻo để thương để nhớ.
Hồ phu nhơn:
– Đặng vậy thì tiện lắm. Vậy mình hãy mau yểm lụy dời chơn đi; kìa tiếng trống nọ tiếng chiêng đã gần tới dinh, mình chẳng nên bịn rịn.
Tô Thường Hậu lau lụy bước ra. Hồ phu nhơn trở vào, bước thẳng vô phòng trang điểm. Chập lâu, Hồ Quốc Thanh về tới dinh, xuống ngựa bước vào, gặp mặt Hồ phu nhơn đang đứng chờ nghinh tiếp. Thấy mặt nhau, Hồ phu nhơn mầng biết bao; bên vạn phước, bên hàn huyên, bỏ lúc vợ chồng chia cách.
Hồ Quốc Thanh vào phòng thay đổi y phục, liếc thấy trên bàn ăn sắp hai đôi đũa, hai cái ly để hai bên, ngay chỗ hai cái ghế ngồi ngang mặt nhau, thì lấy làm lạ lắm; thầm nghĩ: “Khi mình còn ở nhà, thì đủ chồng đủ vợ, ngày đêm thường vui chén tạc thù với nhau; nên thế nữ mới là dọn mỗi món đũa hai, để sẵn cho vợ chồng mình vầy tiệc. Chớ khi mình xuất sư, để bước ra đi rồi, thì vợ chồng quạnh hiu, cô phòng chiếc bóng, có ai đặng vào ra chốn dinh cấm này hòng có kẻ lộn vào đây ngồi ăn uống với vợ mình mà lại có hai đũa hai ly cũng lạ!
Không lý, vợ mình tánh ý nghiêm chỉnh trong việc tề gia có tiếng, nay lại đổi táng, để bàn, chịu cho thế nữ chông bàn mượn mỏ làm vui giải cơn phiền lẻ bạn? Mà cũng không lý vợ mình chịu mất nết ngồi ăn uống cùng ai, quên mình là gái có chồng, quên mình là mạng phụ?
Dường ấy, mới biết sao mà hiểu thấu nỗi riêng. Vậy mình cũng nên hỏi vợ mình coi ở nhà nó thường ngồi ăn uống với ai, mà trên bàn lại có sẵn bày hai đôi đũa với hai cái ly uống rượu.”
Thầm nghĩ vậy rồi Hồ Quốc Thanh liền xây hỏi vợ:
– Nầy phu nơn, vợ chồng kể từ buổi mới hiệ nhau cho đến khi lửa bén hương nồng, vợ chồng lấy cái nghĩa đầu ấp tay gối má nói, thì dạ hằng thương yêu nhau không nỡ rời nhau; tôi tưởng cái tình khắng khít, nghĩa ấp yêu của đôi đứa ta, dầu mắt nào trông vào cũng đều nghĩ cho một thác mới xa nhau, chớ như sống ở dương trần cùng nhau mãi thế, thì không chi ngăn đón gió đông, làm đôi đứa ta thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi, nên nỗi rời chăn rã gối.
Lại như từ khi vì việc nước mà cợ chồng phải cách mặt khuất lời cùng nhau, mình tôi lên ngựa đi rồi, thì chẳng nói cũng biết đôi ta, người về chiếc bóng năm canh, kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi; cho nên dẫu vợ chồng ta có cách nhau muôn dặm quan hà đi nữa, mình cũng chẳng nên quên lời người trải gió dầm mưa, một người nặng gánh tương tư một ngày; chớ có lý đâu mình vội quên lời căn dặn mình ở nhà phải ráng mà gìn vàng giữ ngọc cho hay, cho đánh lòn kẻ chơn mấy cuối trời.
Thật không lý đâu có vậy mà tôi cũng không chút lòng tưởng cho mình đành tham lục tiếc hồng, loan chông phụng chạ mà phụ nghĩa nhau bao giờ.
Thế mà cớ sao từ tôi về đến đây, tôi lại thấy có sự khác thường, lắm điều lạ mắt, dường như có kẻ lộn vào chén thù chén tạc cới mình vậy mình?
Hồ phu nhơn nghe qua, ngồi làm thinh một hồi hình như suy xét trong lòng, rồi cười mà đáp rằng:
– Phu quân về đến dinh, dòm thấy trên bàn ăn có để sẵn hai đôi đũa, hai cái ly, nên phu quân sanh nghi mà hỏi thiếp vậy chăng? Ối! tuổng chi kìa, chí như việc đó có chi khác thường có chi rằng lạ mắt, a .. phu quân!
Phu quân đã rõ biết đôi ta từ kết nghĩa tào khang, cang thường chông gánh đến giờ bể ái nguồn ân đầy dẫy, bỗng không mà vỡ lỡ tóc tơ, chia tình vàng đá há chẳng đau lòng kẻ ở người đi lắm sao?
Như phu quân mười vạn tinh binh, phất cờ, dóng trống ra trận còn có chỗ khuây lãng đặng lòng sầu chia cách; chỉ như thiếp ở nhà một mình đây, dễ đâu phu quân lại chẳng biết: Vầng trăng khuyết, dĩa dầu hao, mặt mở tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng, nên thiếp phải kiếm thế nào giải tấc sầu tình, đặng mà chữ dạ cô phòng trực tiết.
Phu quân vẫn biết người sanh ở nơi cõi tạm nầy có tình nào nặng cho bằng tình chăn gối, có nghĩa nào dày cho bằng nghĩa ấp yêu; mà rủi ra hương đang nồng, lửa đang đượm, thình lình có lịnh sai cah2ng muôn đội binh rồng, trường sa dẹp giặc, khiến nỗi chia uyên rẽ thúy, cầm sắc ngẩn ngơ, vầng trăng phút rẽ làm đôi, nửa in gối chích, nửa soi dặm trường, bỏ thiếp ở lại một mình cô phòng quạnh quẽ; chiếc bóng năm canh, đắp thảm đeo sầu, ngày trông đêm đợi.
Nỗi thương nhớ chẳng phút nào nguôi! Thiếp tưởng dầu cho lòng đinh dạ sắt mà vương phải mối sầu tình đi rồi cũng còn phải hao mòn thay; huống lựa là thiếp, cũng loài người, cũng thịt cũng xương như sai, lý nào chẳng bầm gan tím phổi. Nỗi đau đớn biết kể sao cho cùng!
Bởi vậy thiếp mới trộm lịnh chồng bày chuyện khiển sầu, tìm phương giải muộn, đặng mà:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
Cho đành lòng kẻ chơn mây cuối trời.
Một lời nầy đây, thiếp tưởng cũng đủ cho lang quân thấu hiểu rằng, tuy thiếp trộm lịnh chồng bày chuyện giải phiền chia cách thì mặc dầu, thiếp chẳng gan dạ nào làm đến điều bẩn sầu mua vui, nên nỗi thân ngàn vàng để ô danh má hồng.
Thiếp chỉ có mỗi khi có chị em xa gần đến viếng, thiếp cầm ở lại trong dinh, để chị em trước cùng nhau chén tạc chén thù, sau mượn mỏ làm vui trong canh vắng.
Bởi vậy mới có những đũa những ly trên bàn mà lang quân còn trông thấy đây; thiếp tượng không điều gì nữa mà ngờ, xin mựa hoài nghi tội nghiệp.
Ngoài ra thiếp còn xin tỏ thêm một cớ này nữa cho lang quân nghe. Không những có khách đến mà thế nữa dọn đủ phần hai người ăn vậy thôi, cơn một mình thiếp, thiếp cũng biểu dọn đủ hai, như lúc phu quân còn ở dinh, đặng cho thiếp dòm thấy đấy, tưởng như có phu quân ngồi tại. Cho nên dầu có khách, dầu không có khách, cũng có đủ hai cái ly, hai đôi đũa luôn luôn.
Mà nhứt là trong mấy bữa sau đây, nghe tin thắng trận bang sư, thiếp tuy khôn chắc bữa nào phu quân về tới dinh, mà thiếp đã phới phở tấc lòng sớm trông tối đợi; nên thiếp đã dạy thế nữ sửa đặt yến viên, để sẵn cho vợ chồng mình vui say, bỏ lúc sâm thương hoài vọng.
Hồ Quốc Thanh nghe dứt, tuy mặt có sắc vui mà lòng chưa phải hết nghi tình vợ, song cùng gượng nói gượng cười mà che lấp cho qua.
Hồ công vừa muốn hỏi việc nhà, kế có quân báo động vào rằng có những quan hàm chức sắc trong tỉnh tới lễ mầng thắng trận. Cực chẳng đã, không tiếp thì ra vô lễ, Hồ công phải ráng ra khách giây lát tiếp năm mười người thôi, còn bao nhiêu xin kiếu để mai, đặng nghỉ kẻo mới về còn đang mỏi mệt.
Trong khi Hồ công vào phòng đặng nằm nghỉ, thì Hồ phu nhơn còn đương thôi thúc đoàn thế nữ sắp đặt yến điện, ngỡ cho chồng còn ngồi tại thính đường tiếp khách.
Hồ công nằm trên giường, hút thuốc phì phà, mắt ngó theo vầng khói cuộn cuộn hay lên nóc mùng mà chiêm nghiệm sự mình lập nên công lớn. Chắc làm gì bận nầy Chánh phủ Bắc Kinh cũng phong thưởng mình chớ chẳng không.
Lại nghĩ: “Gặp đời ly loạn, việc nước đổi dời, khiến nên thiên hạ đảo huyền, sanh linh đồ thán, mà mình tuy chưa phải sức tơ treo nổi vạc, cũng không tài tế thế an bang thì mặc dầu, chớ cũng đã đông xông, tây đột, nam tảo bắc trừ, tiên đầu loạn ngạch mới là đặng vinh vang huê dạ như vầy, nghĩ cũng đủ rồi, chẳng còn thiếu chi khao khát; cực có một nỗi nhà, không biết lúc mình ra giữa chốn chiến tràng, luống chịu nằm sương gối vác, đội nguyệt mang sao, ngựa chẳng rời yên, người không lìa giáp, xông tên đột pháo, ra tử vào sanh nhọc nhằn trót mấy năm, chia cách hai mươi bốn tháng; chẳng biết vợ mình ở nhà nó có xót thương phận chồng mà giữ tròn tiết gái hay không, mà khi về, thấy vậy cũng nghi lòng e có bướm ong lẫn lộn.
Hỏi lại, thì lẽ cố nhiên, mấy ai chịu lỗi mình; nó nói nghe ra dường nó giữ tiết thờ chồng, cửa đóng then gài, không cho gió lọt; nhưng có biết sao mà ngờ.
Nghĩ vì, đời hằng ví: nhứt dạ sanh bá kế, lại có câu tối độc phụ nhân tâm; cho nên từ xưa, nào là anh hùng đắm sắc mà lâm; nào là hào kiệt nghe lầm mà lụy. Câu sắc bất ba đào thường thấy, những đờn bà hạng ấy, đạo tùng phu hữu thỉ cô chông; chẳng nhớ khi khăng khít giải đồng, nên, mới chẳng tưởng nhứt dạ sàn chông dạ ái.
Biết mấy mặt sách xưa còn để lại, cho đời soi tích gái bội phu; biết mấy tay dĩ ngãi vi thù, dạ bao quản tình phu nghĩa phụ,”
Thầm nghĩ tới đây, Hồ công vừa xoay mình trở qua, vừa thở ra, bỗng chút sút tay rớt điếu thuốc; Hồ công không chịu bỏ, mói nằm sấp xuống gieo mình cúi đầu vói tay mà lấy.
Chợt thấy một bãi nước miếng trắng lộn đàm, khạc nhổ hồi nào còn ràng ràng trên gạch; Hồ công sanh nghi, nên tay chưa vói tới điếu thuốc mà mắt đã chăm chỉ nhìn bãi nước miếng ấy.
Lúc bấy giờ Hồ công mới đổi nghi làm tin; quả quyết vợ mình ở nhà có tư thông với ai, đem vào chung phòng, chuyện trò canh vắng; nên mới có nhổ nước miếng còn mới ràng ràng như vầy. Lại như bãi nước miếng mình còn trông thấy đây, chẳng phải là nhổ hồi hôm tới giờ, mà hẳn thật mới nhổ trong lúc ban trưa: chừng thấy chéo cờ phất, nghe tiếng trống rung, quan quân rộn rựt, chừng ấy, mới giựt mình tỉnh giấc lật đật thoát thân, lánh ra ngoài khỏi.
Chắc quả vậy, chẳng còn chỗ ngại ngùng nghi sái tưởng lầm chút nào. Làm gì vợ mình ở nhà lâu ngày thua buồn cũng có sanh tâm, đành dạ ôm cầm quá biệt. Nghĩ đến lẽ, Hồ công sụt sụt máu ghen, lửa lòng hừng dậy, tức giận sức muốn rút gươm giết vợ cho rồi, nhưng bởi bụng còn nghĩ chưa hỏi lại vợ cho rõ ngay gian mà vội giết nó đi thì ra lẽ bất minh, sợ miệng thế không hầu xét nét. Chi bằng, việc đâu còn có đó, tang chứng đã hiển nhiên, kêu vợ lên mà hỏi lại liền, cho khỏi tiếng trách phiền tơ tóc.
Nghĩ đến lẽ, Hồ công liền kêu vợ lên, rồi chỉ bãi nước miếng mà hỏi.
– Nầy mình! Mình hãy bước lại coi bãi nước miếng nầy của ai nhổ đây? Thật rõ ràng là bãi nước miếng đờn ông, lại cũng mới nhổ ràng ràng; chớ chẳng phải nhổ bằng hôm sớm mai gì mà nói.
Hồ phu nhơn nghe hỏi, trơ mắt ngó bãi nước miếng, mà mặt đã biến săc chàm; nghĩ cơ gian đã lậu rồi, còn chi mà giấu. Hồ phu nhơn mới đáp:
– Nếu không phải của mình thì nước miếng của tôi, chớ của ai; từ lúc ban trưa tới giờ, có ai lộn vào phòng này hòng nghi cho nước miếng của ai nhổ đó!
Nói rồi Hồ phu nhơn giả ý giận dữ, quày quả trở ra: và đi và nghĩ d9i nghĩ lại một mình, nghĩ cho lời sám thiệt hay, tại mình bàn sái. Chí như câu: “Mạt thổ tại nhân tiền” rõ ràng lời sấm dặn bảo đừng nhổ nước miếng trước mặt người mà sanh sự đây chớ gì!
Bởi bàn nghĩa không ra, xét xa không tới Tô Thường Hậu mới sơ ý nằm khạc nhổ xuống gạch, để dấu cho Hồ công nhìn đấy mà nghi tình rồi còn gì. Lỡ vậy rồi thì thôi, từ đây ta cũng nên bưng kín miệng bình mà giữ lấy mình, và dặn Tô Thường Hậu cũng phải giữ lấy mình; nếu chẳng kiên tiết lậu sự tình, thì ắt khó nổi giữ mình cho vẹn.
Muốn đặng vậy, làm gì sáng ngày mình cũng phải giả chước lên chùa Bảo Anh mà dặn dò Tô Thường Hậu mới xong, bằng chẳng, người không biết mà lầm, thì tội nghiệp cho người, vì mình mà phải tấm thân nguy khốn.
Hồ phu nhơn đáp cùng chồng như vậy và riêng lòng thầm tính như vậy rồi cứ chăm chỉ lo sự đi chùa Bảo Anh dâng hương, còn Hồ Quốc Thanh nghe đáp thế ấy lại lấy làm bất bình lắm nỗi; nghi quyết cho vợ mình ở nhà làm gì cũng có bẻ lựu hái đào chơi hoa giỡn nguyệt; cũng một chiếc bóng năm canh, quạnh quẽ đêm thanh, mối sầu tình vương vấn; những khách phong tình thấy vậy mới cậy mai mối dỗ dành, quyến anh rũ én, lâu ngày rồi thua buồn phải nghe, mới sanh đến điều núp bóng vườn dâu, trộm ân thầm ái.
Không những một người ngoài đứng vào làm mai mối mà thành; đây chắc sao cũng có tay trong; mà tay trong đó là ai? Chắ con Đào Anh chớ không ai! Nội nhà một mình nó là tâm phúc ruột rà của vợ mình; ngoài nó thì không đứa nào dám đèo bồng tới chuyện. Chắc là nó chớ không ai, tại mà gây nên chuyện. Cho nên chẳng nghĩ nào mà giận người ngoài trăm mối tại tay con Đào Anh mà ra hết thảy.
Xét đến Hồ Quốc Thanh ngồi giân căm gan, thệ quyết giết con Đào Anh, phân thây trăm đạon thì mới thỏa lòng hờn. Xét rồi Hồ Quốc Thanh vừa muốn đứng dậy, rút gươm đi giết con Đào Anh, thì người lại nghĩ lại:
“Tuy cũng có tại con Đào Anh mà ra, nên nỗi tóc tơ lãng mối, nhưng mà xét cho xa nghĩ cho cạn lại rồi, cũng chẳng nên trách con Đào Anh: vì nếu vợ mình mà giữ tiết trao mình, thì dầu con Đào Anh có nói chi đi nữa, vợ mình không khứng thay lòng đổi dạ, thì có cũng không cãi quá đặng. Thế thì tại nơi con vợ mình chớ chẳng phải tại con Đào Anh mà hận con Đào Anh, thì oan nó lắm.
Thật tại vỡ trắc nết lang tâm, chẳng nhớ vợ chồng khăng khít dải đồng, đầu ấp tay gối, tình mặc nghĩa nồng; lại cũng chẳng nhớ ngay mình bước chân ra: Tóc tơ căn dặn tấc lòng, trăm năm tạc một chữ đồng ghi xương. Nó làm màu bịn rịn đưa mình đi cho khỏi dinh rồi ở nhà không giữ ngọc, chẳng gìn vàng, lại nó làm đàng ong bướm; chẳng quản chút thân phận chồng hiu quạnh chốn đồng hoang, đội nguyệt mang sao nằm sương gối vác”.
Nghĩ đến đây, Hồ Quốc Thanh lấy làm đau đớn không kể xiết. Thương bao nhiêu, tiếc bao nhiêu, lòng càng giận lẫy hờn ghen bấy nhiêu; cho nên Hồ Quốc Thanh ngồi: Lửa tâm càng dập càng nồng, trách người đen bạc ra lòng trăng hoa. Trách phiền vợ đến điều rồi, thệ quyết rửa hờn, cho lũ gian dâm biết mặt.
Hồ Quốc Thanh tính làm gì cũng giết vợ cho rồi, thà rằng khuất mặt, hơn đau lòng, ăn không ngon, nằm không ngủ. Không những thệ lòng giết vợ mà thôi, mà Hồ Quốc Thanh những còn mong giết cho đặng kẻ lấy vợ mình, giết cho tới những kẻ làm mai, giết sạch hết loài gian, mới là an thửa dạ.
Tính tới đây, Hồ Quốc Thanh vừa muốn đứng dậy rút gươm đi, bỗng đâu Hồ phu nhơn bước vào, ngó Hồ Quốc Thanh mà cười mỉm chi, rồi bước tới gần, ngả ngớn đứng ngồi, đỏng dảnh giọng kèn giọng quyển.
Tội nghiệp cho Hồ Quốc Thanh, nư giận còn tràn hung, mà chẳng biết sao, vừa thấy cái mảnh gương sáng rỡ trước mắt, hơi hương bay cận mũi rồi, thì con quỷ gai65n trốn đâu, con ma thù biến mất, nó bỏ cái xác Hồ Quốc Thanh ngồi trơ, dường bị hớp hồn, chẳng còn biết chi là thù chi là hận! Đã chẳng còn nhớ tới thù hận thì chớ, người lại tỏ sắc hân hoan, hớn hở vui cười ví chẳng khác cá kia gặp nước.
Hồ phu nhơn thừa lúc cạ vế kề vai, má hồng đỏng đảnh, mới nói cùng chồng:
– Mình ôi, vì tình mặn nghĩa nồng, lòng yêu dạ mến, yêu ấp chẳng rời, cùng nhau quyết trọn một đời, không dời không đổi, nên khi mình muôn đội binh rồng, phất cờ dóng trống, thiếp ở nhà một mình ôm dạ nhớ thương, ngày trông đêm đợi; thiếp lại còn lo sợ hết hồn cho thân chàng ở chốn đồng hoang, đột phát xông tên, vào sanh ra tử, nên thiếp có trộm lịnh chàng trong cơn vắng mặt, tới chùa Bảo Anh mà dưng hương, khẩn cầu cho chàng đàng sá bình an, bền quân thắng trận. Nay đặng thỏa nguyện rồi là chàng đã lập nên công lớn với nước vớ dân, vợ chồng lại đặng một nhà sum hiệp, thiếp tưởng còn có chi vui đẹp cho bằng mà nỡ quên lời khấn hứa. Vậy thiếp tính sáng ngày thiếp xin phép lên chùa Bảo Anh, hoa quả hương đăng lễ tạ; chẳng hay lang quân có bằng lòng cho thiếp đi chăng?
Lúc bấy giờ Hồ Quốc Thanh còn ngồi trên giường, chơn thòng xuống đất; Hồ phu nhơn khi nói dứt liền dựa mình vào lòng Hồ Quốc Thanh mà xây mặt ngó ra, nắm hai tay Hồ Quốc Thanh giắt ngang trên vai, bỏ thòng xuống ngực, rồi lại ngửa mặt ngó lên nhìn mặt Hồ Quốc Thanh, tay thì vói lên rờ cằm mơn trớn, xem ra hình ngả ngớn, lả lơi một cách phi thường; làm cho Hồ Quốc Thanh nồi ngó cặp mắt phụng, đôi mày tằm, nhìn môi son, xem má phấn mà chết tê; cho nên, không những Hồ Quốc Thanh không còn nhớ chút chi là hận tình mà thôi, mà lại còn mê mẩn tâm thần, say dắm nét mày gương mặt.
Bởi vậy Hồ Quốc Thanh mới đổi buồn làm vui, quên thù nhớ nghĩa mà hun hít nựng nịu như thường; lại thêm nghe nói chi cũng ừ, tính chi cũng phải, chẳng hề đối cãi một lời. Nghe vợ tính sáng ngày đi cúng chùa, cũng xuôi theo một nước; song chàng có ý để lời căn dặn như vầy:
– Lúc nầy là lúc loạn ly, trong nước trộm cướp dấy bốn phương, đàng sá không thường họa phước chẳng biết đâu mà ngừa đón. Như mình muốn đi chùa Bảo Anh, thì để tôi cho theo một đội quân hộ tùng, kẻo đường sá xa xuôi, núi non hiểm trở, để mình đi với đoàn thể nữa, thật tôi chẳng an lòng.
Vả lại đường từ đây tới chùa Bảo Anh thật xa, chẳng phải đi trong một buổi sớm mà về kịp. Làm gì cũng xế qua mình về mới tới dinh. Vậy mình đi, có đội quân của tôi cho theo hộ tùng, thì mình chẳng cần đem thế nữ theo làm chi nhiều cho rộn; một vài đứa phục sự tưởng cũng đủ cho mình dùng. Còn bao nhiêu mình để lại dinh coi phục sự cho tôi, thì hai bên đều đặng tiện.
Nghe qua, Hồ phu nhơn không kịp nghĩ, liền chịu như lời chồng; nên sáng ngày cùng vài con thế nữ lên kiệu ruổi dong, có đội quân ủng hộ.
Chuyện Hồ phu nhơn đi cúng chùa hãy còn dài, xin để dẹp lại sau; bấy giờ kể sự Hồ Quốc Thanh ở nhà một mình nghĩ vợ con bạc tình tức mình ám ách: “Đã đôi phen, muốn cầm gươm mà giết phứt nó đi cho rồi, mà chẳng biết sao, hễ thấy mặt nó vào, chíp miệng cười duyên, ngửa nghiêng ngả ngớn mơn trớn lả lơi, thì bao nhiêu giận hờn thù oán nó biến đi đâu mất rồi; bỏ cái xác đắm sắc, say tình ngồi trơ dường mặt sắt. Nay nó đã đi cúng chùa rồi, bỏ đoàn thế nữ ở lại dinh; tưởng muốn rõ chơn tình, mình cũng nên bắt chúng nó ra mà tra hỏi”.
Xét đến đây, Hồ Quốc Thanh vừa muốn đứng dậy, kêu hết đoàn thế nữ vào phòng tra hỏi, thì chàng liền tỉnh ngộ mà nghĩ lại rằng: “Nếu mình kêu hết vô mà tra hỏi, như chuyện có, dầu khi vợ mình trỏ về, nó có học lại cũng không sao, còn như chuyện không, mà mình nghi mà tra hỏi như thế, thì khi vợ mình về nó học lại, chi cho khỏi sanh sự bất bình, đất bằng sóng dậy.
Chi bằng mình hỏi một đứa mà hỏi, tưởng cũng đủ rõ ngọn nguồn. Phải lựa đứa nào bây giờ? Tính lại nội đoàn thế nữ trong dinh, có con nào đặng vợ mình tin dùng hơn con Đào Anh. Nó là con tâm phúc ruột rà của vợ mình; cho nên thường một mình nó đặng ra vào phòng nội. Nếu quả vợ mình ngoại tình để cho ong bướm lộn vào trong cơn vắng mặt thì, lẽ cố nhiên, con Đào Anh rõ biết đục trong thấu nỗi kẽ răng chơn tóc. Vậy mình cũng nên tra vấn một mình nó là xong, chẳng cần phải hỏi nhiều cho rộn.”
Lúc bấy giờ trời rạng đông, đoàn thế nữ trong dinh còn chưa tỉnh giấc, trừ ra đứa nào tới phiên nấu nước, thì mới dậy sớm mà lãnh phiên thôi. Cớ ấy nên Đào Anh cũng còn nằm ngáy pho pho như mấy chị em khác vậy.
Bỗng đâu có lịnh quan Đô đốc đòi hầu. Thế nữ lật đật chạy vào kêu giựt ngược Đào Anh, rồi đỡ xốc dậy mà nói có lịnh đòi tức tốc. Đào Anh bị kêu vội kéo đùa, đôi mắt lim dim, hồn còn chưa tỉnh, nên dậy ngồi mà ngơ ngẩn như say; đến chừng nghe có lịnh trên đòi, nàng mới giựt mình tỉnh giấc. Nàng vội vàng để chơn xuống, lật đật chạy nhào, không kịp rửa mặt rửa mày, gỡ đầu bới tóc.
Vào tới phòng, thầy Hồ đô đốc còn năm trên giường, Đào Anh mới chường; Hồ đô đốc ấy lại ngó Đào Anh không nháy mắt, ngó mặt Đào Anhmà nhìn giây phút rồi vừa muốn mở miệng hỏi Đào Anh, thì Hồ Quốc Thanh lại em tai vách mạch rừng mà không chịu hỏi; bèn sanh một kế hay, giả sai Đào Anh ra vườn bẻ hoa, đặng có thừa cơ hội cấp gươm theo đón hỏi; vì Hồ Quốc Thanh thầm nghĩ, ra tới nơi vắng vẻ, sau trước chẳng có ai, mình những dầu lỡ giận xuống tay, cũng không có ai hay nông nỗi.
Nghĩ vậy rồi, Hồ Quốc Thanh không hỏi chi tới Đào Anh một lời; chỉ có sai Đào Anh phải mau ra hồ sen, bẻ hoa dâng cho sớm, Đào Anh vâng lịnh ra đi, nào ngờ chủ mình toan kế giết mình, nên đi mà có bụng mầng cho phận tôi đòi đặng lòng chủ yêu sai khiến.
Đào Anh nào thấy cái chết đợi mình giữa chốn vườn hoa; mà Đào Anh cũng không ngờ số mạng mình ngày nay phải chết về lưỡi gươm vô tình của quan Đô đốc, cho nên Đào Anh khi ra tới hồ sen, lòng vẫn an như thường lại có vẻ hân hoan hơn mọi bữa.
Bởi vậy nàng bẻ đặng cái hoa nào nàng cũng cầm mà ngửi lấy mùi thơm, cũng cầm mà xăm soi sắc đượm. Đòi phen, nàng thầm ước cho cái gương mặt của nàng đặng xinh đẹp như hoa, đặng mà, chẳng phải để cho bướm liệng quanh vành, ong làm đàng qua lại; nàng chỉ mong có này trở nên người phẩm trọng giá cao, làm một vì mạng phụ trong trào, chứa ở lầu cao cửa kiếng. Cái hy vọng của nàng làm cho nàng phơi phở tấc lòng biết bao.
Đã vậy, cái cảnh trời đông lặng lẽ, mát mẻ còn giúp cho nàng đẹp mắt vui lòng hơn nữa; khiến nàng, lúc trời bình minh, đứng giũa đám hoa sương sa lác đác, mịt mù dường khói tỏa, mây ung; nàng đứng mà nhìn trân từ hột sương đeo ngọn cỏ rất não nùng, nếu đem mà sánh với mảnh má hồng, rõ ràng đứng, trắng như ngà trong như ngọc.
Còn đang nghĩ tới xét lui, lo quanh tính quất, thoạt nghe có tiếng Hồ Quốc Thanh kêu:
– Đào Anh! Đào Anh!
Nàng vội vàng xây lại đụng mặt Hồ Quốc Thanh, nàng sợ thất kinh hồn vía. Đã vậy, nàng lại còn bị Hồ Quốc Thanh nhảy tới thộp ngực, cầm gươm đưa ngay họng Đào Anh mà hâm rằng:
– Nếu mi chẳng e hở miệng ra răn, mi la lên một tiếng, ắt mi chết chẳng toàn thây toàn mạng!
Dứt lời Hồ Quốc Thanh nắm đấy mà dắt lần Đào Anh đi; đi tới một chỗ hóc vắng, cũng nội trong vườn hoa ấy, Hồ Quốc Thanh mới ngừng để Đào Anh ngồi trên một gốc cây hình như một cây dừa ngã ngang giữa một đám chuối cây, lá che kín tợ màng treo trướng phủ.
Hồ Quốc Thanh mới kêu Đào Anh, nhưng bởi Đào Anh lúc bấy giờ hồn những còn gởi đám gió vàng, phách nương mây bạc, nàng mở mắt nhìn tứ cố, tưởng đâu mình ngồi trong chốn cửu nguyền; cho nên nàng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, lơ lơ, láo láo, xem Hồ Quốc Thanh dường yêu quái tà tinh, hiện tại hại mình, nên chẳng dám nhìn tạn mặt.
Hồ Quốc Thanh thấy bộ Đào Anh kinh hãi đến thế, bèn dẹp oai hùm mượn tiếng ngọt dỗ dành; hồi lâu Đào Anh nhìn biết Hồ Quốc Thanh, mới là hỏi cớ sao mình ngồi đây!
Hồ Quốc Thanh bấy giờ mới hỏi:
– Đào Anh! Từ mi vào phục sự lịnh bà, từ ấy chí những nay, ta dòm thấy trong đoàn thế nữ, có một mình mi tận tâm trung nghĩa, thật dạ kính thành, cho nên một mình mi đặng lịnh bà thương tình, trọng dụng mi hơn hết. Mai là tay tin cậy như ruột rà của lịnh bà. Tự vốn biết vì lòng trung nghĩa ấy, dầu việc lớn việc nhỏ chi của lịnh bà mi cũng bưng kín miệng bình, chẳng hề lậu ra cho ai biết.
Nhưng với ai ai kia mi giấu nhẹm vậy thì phải, chí như với ta, mi vẫn biết ta là chồng của Hồ phu nhơn, ta cũng là chủ của mi, mi cũng phải kính thờ ta như thờ Hồ phu nhơn vậy – không lý mi đi giấu ta, cho ra lỗi đạo.
Vậy ta có hỏi mi, mi phải cứ thiệt mà khai ngay, mi đừng có giấu đầu lòi đuôi mà phải đền tội lỗi. Ta hỏi mi: Vậy chớ từ ta muôn đội binh ròng, phất cờ dóng trống, ra đi dẹp giặc trường sa cho đến khi trở về, bà mi ở nhà tư thung với ai; ai đem mối ai làm mai mi phải khi cho rõ? Mai phải biết, ta mà hỏi đến mi, là bởi ta có đủ bằng cớ trong tay rồi, mi đừng toan giấu diếm; lại mi cũng phải nhìn cho tạng cái lưỡi gươm vô tình nầy có không hay dung vị ai; nếu mà mi quyết chẳng khai ngay, thì chẳng khỏi tai bay họa gởi.
Nghe qua Đào Anh lấy làm sợ hãi, chừng ngó lên thấy lưỡi gươm trên tay chủ mình sáng tợ dao mài, thì thất vía hồn kinh, tay chơn bủn rủn ngồi chết tê như có xác không hồn, còn miệng mà không ngỏ nói giây phút, Hồ Quốc Thanh không nghe đáp lời, lại hỏi nữa:
– Sao? Mi có chịu cứ thiệt mà khai ngay chăng? Ở nhà bà mi tư thung với ai; đem ai vào phòng trung chông gối?
Bấy giờ, Đào Anh mới thở ra, rồi lấy hơi vào, gượng gạo dằn lòng mà bẩm rằng:
– Bẩm thượng quan, từ vào phục sự lịnh bà cho đến cơn thượng quan tấn binh ải ngoại phận con đòi chẳng hề dám sai; ngày những lẫn đêm thường ở một bên lịnh bà mà hầu đỡ tay chơn không khi nào hở, mà tiện tì chẳng hề thấy có ai ra vào lạ mặt, cũng là nhỏ to chuyện vãn sớm khuya; thật là lịnh bà trực tiết phòng không, cửa gài then đóng; lãng tai lời hoa nguyệt, ngơ mắt cuộc bướm ong, lại thêm từ thượng quan xuất sư cho đến khi thắng trận trở về, tiện tì chẳng hề thấy lịnh bà bước chơn ra khỏi phòng, cớ sao thượng quan lại nghi là lịnh phu nhơn ở nhà đổi dạ thay lòng, làm đến chuyện ô danh sủ tiết.
Hồ Quốc Thanh:
– Mi chớ có xảo ngôn mà oan hồn ăn năn không kịp. Ta đã nói ta mà hỏi đến mi là bởi chuyện ta biết đã rõ ràng, còn chi toan giấu diếm. Mi dám hói rằng từ ta xuất sư, bà mi cam phận chiết bóng cô phòng bướm ong ngơ mắt, chẳng hề có ai ra vào nơi dinh cấm nửa chi?
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan, tiện tì nói không ai ra vào sớm tối, là ý tiện tì muốn nói không có ai vào dinh tư thông với lịnh bà như ý thượng quan tưởng lầm nghi lỡ đó vậy. Chớ như người ra vào, hoặc chị em quen biết, hoặc là kẻ bán buôn, thì có ngày nào là ngày không có người gởi xin ra mắt.
Hồ Quốc Thanh:
– Mi thiệt xảo, mong kiếm lời che lỗi cho phu nhơn; nầy, Đào Anh, vậy chớ từ khi ta đi cho đến khi ta ra về, mi dám chắc không có người vào dinh chông phòng chông gối với lịnh bà đêm nầy sang đêm nọ, và vầy tiệc với lịnh bà, chén tạc chén thù, bữa sớm bữa tối bữa khuya sao? Mi hãy nói thiệt đi cho ta nghe; nếu mi còn che quất giấu quanh, ắt chẳng khỏi gươm linh sát hại.
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan, tưởng chi lạ, chớ như chuyện chông chăn chông gối, chén tạc chén thù, đó là sự thường, có khi nào không có. Thượng quan đi rồi, bỏ lịnh bà ở dinh một mình, cô phòng hiu quạnh thắt thẻo năm canh, có lý nào lịnh bà không phiền chia cách mà trông có khách đến thăm, đặng cầm ở lại mượn mỏ làm vui, chuyện vãn sầu trong canh vắng hay sao? Mỗi khi có khách lạ chị em xa gần đến viếng, tiện tì thấy lịnh bà thường hay cầm ở lại có it lắm cũng một đêm một ngày, cầm ở trong phòng ăn uống trò chuyện cùng lịnh bà để giải cơn phiền não. Tiện tì chẳng bao giờ mắt thấy hay là tai nghe có người khách đờn ông nào vãn lai tất cả, xin lượng trên hãy thương tình.
Hồ Quốc Thanh:
– Ngày ta về gần tới, trong lòng lịnh phu nhơn còn có người khách nào nữa không?
Đào Anh:
– Thưa có, song khách vừa ra về thì thượng quan về gần đến; bởi có lịnh phu nhơn không cầm.
Hồ Quốc Thanh:
– Người khách ấy đến bao giờ mà nghe ta về gần tới dinh lại kiếu mà từ qui?
Nghe nói đến điều nầy, Đào Anh có hơi sượng sùng ngần ngại mà đáp thẳng, lại xây mặt ngó Hồ Quốc Thanh rồi ngó lưỡi gươm bộ mặt dáo dác xem tuồng như quá sợ nếu phạm lỗi; Hồ Quốc Thanh thấy vậy, bèn quở la, rút gươm ra làm dữ, dá xuống nhắm chém Đào Anh, Đào Anh thất kinh, né tránh lưỡi gươm rồi lạy và bẩm lia bẩm lịa, xin Hồ Quốc Thanh nhiêu dung, để mình khai thật.
Hồ Quốc Thanh mới nói:
– Chuyện không xoay cớ gì đến mi; nếu mi không dồi lòng trung chánh mà khai ngay, thì chớ trách bữa nay mi tận số. Mi hãy cứ thiệt mà khai ngay đi; ta đã thấu nỗi riêng tư, còn giấu chi cho hại.
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan sủ nữ mô dám giấu thượng quan. Thật thì tiện tì không nhớ chắc người khách nầy vào dinh bữa nào; song, nếu muốn nhắm chừng lâu mau mà nói thì tưởng cho người vào dinh, từ ngày mới đến cho tới bữa ra về, có ít cũng đặng chừng hai năm nay, thượng quan xuất sư chưa đầy tháng, thì đã có người khách ấy đến gởi xin ra mắt.
Hồ Quốc Thanh:
– À há! Mà người khách ấy là ai? Đờn bà hay đờn ông? Ai tuyển dẫn người vào dinh nội?
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan, tớ chẳng rõ người khách ấy là đờn bà hay là …
Hồ Quốc Thanh:
– À! Mi còn muốn giấu nữa à!
Hồ Quốc Thanh và nói và đưa gươm lên; Đào Anh thất kinh mà nói hoảng rằng:
– Bẩm thượng quan xin hãy ráng mà nghe cho hết lời, chớ nóng giận mà oan tình sủ nữ. Thật tớ không hề biết người khách ấy là ai, nên khó mà rõ đặng đờn ông hay đờn bà, song, khi bà bán tơ dắt vào dẫn kiến lịnh phu nhơn, thì thấy cách ăn bận theo dáng đờn bà, lại nghe bà bán tơ nói là tay bán ngọc ở Quế Châu mới sang, tớ đâu có biết.
Hồ Quốc Thanh:
– Vậy thì người bán ngọc ấy là đờn ông, không phải đờn bà, mà cũng chẳng phải là tay bán ngọc. Rõ ràng là tình nhân của mạng phụ đó. Mụ bán tơ với mi làm mai dẫn vào tư thung với lịnh phu nhơn từ hai năm nay; người mai ngoài, kẻ mai trong, sao mi dám dối rằng mi không rõ thấu. vậy thì đáng tội mi chưa: còn chi trách gươm linh không vị.
Dứt lời Hồ Quốc Thanh sầm gươm đứng dậy chém Đào Anh; Đào Anh hết ồn, cúi lạy tam thiên, xin dung tánh mạng, và hứa chịu tỏ hết sự tình, kể từ chơn tóc kẽ răng, cho thấu đáo khúc sông nguồn ngọn. Nghe Đào Anh hứa chịu khai ngay, Hồ Quốc Thanh mới dằn lòng ngừng tay mà nói:
– Chuyện làm sao, mi khai thiệt hết đầu dây mối nhợ ta nghe; đầu làm sao, đuôi lại làm sao; nếu mi còn vị tình lịnh phu nhơn mà giấu một mảy lông, thì ắt mi không toàn mạng. Mi hãy ngó lưỡi gươm nầy mà khai; tưởng mi cũng nên xem lấy nó để dò từ khúc, nhớ từ hồi, mà khai, kẻo quên mà mang khổ!
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan để tớ khai ngay.
Miệng thì nói khai, mà Đào Anh còn ngồi dần dà chưa chịu mở lời, xem tuồng như bụng còn tưởng Hồ phu nhơn mà không nỡ, tỏ hết nỗi niềm, bày tâm sự thiệt; nên Đào Anh ngồi, đôi giọt lệ tràn mặt dáo dác ngó quanh ngó quất; hình như ngó chừng coi có lịnh phu nhơn về chưa, hoặc có ai trong dinh ra dòm thấy, nghĩ tình chạy đi thung tin cầu cứu.
Mà nào có thấy ai đâu! Đào Anh lúc bấy giờ coi một phút hơn một giờ, ngồi trên cỏ mà chẳng khác nào ngồi trên chông, lấy làm đau đớn tấm lòng xốn xang gang tấc. Ước chẳng thấy cái chết nằm kề bên lưỡi gươm nằm trên tay Hồ đô đốc kia, thì Đào Anh cũng còn toan kế dần dà, dục mưu cầu hưỡn mà chờ tin cứu, ngặt nỗi lưỡi gươm vô tình không hay dung vị, lại thêm tánh Hồ đô đốc nóng như lửa đốt dễ gì ngồi đợi cứu tin; cực chẳng đã, thật là lúc cùng chẳng đã, cơn túng phải liều, cực chẳng đã, Đào Anh phải cam, cứ lẽ thẳng mà khai tình ngay mà bẩm; nghĩ không lý mình khai rồi người còn chẳng dung, hay là người đành cầm gươm mà giết vợ người hòng sợ.
Nghĩ vậy rồi, nàng mới chịu khai rằng:
– Dạ dạ, thân sủ nữ là thân hèn hạ, phận tôi đòi, hết dạ hết lòng. Từ vào phục sự lịnh phu nhơn từ ấy chí những nay:
Đã rộng nhờ lượng cả bao dong,
Mong chi nửa đèo bồng cho lỗi,
Từ Đô đốc binh ròng muôn đội,
Chốn trường sa tặc bối khử trừ,
Bà ở nhà ôm dạ tương tư,
Cắt tóc thệ khư khư chữ tiết,
Tai kia lánh xa lời huê nguyệt,
Mắt không nhìn những việc bướm ong,
Năm canh đành chiết bóng cô phòng,
Hai tháng chẳng đổi lòng vàng đá,
Bẩm thượng quan, lịnh bà mà thờ chồng như vậy đó:
Còn chi gọi loan chông phụng chạ,
Ai dám rằng tham lục tiếc hồng;
Dẫu gặp cơn mưa gió bão bùng,
Cùng sấm sét cũng không nao núng,
Có dè đâu, biển dầu cạn ai dò đặng rúng.
Lòng dầu sâu thế cũng khó đo,
Cuộc lửa hương đương nhuốm nên lò,
Loan phụng bỗng sánh so đôi lứa,
Bà dầu chẳng thấp cao chọn lựa,
Ả trăng toan mằn gỡ mối tơ,
Khiến hồng nhan động dạ đào thơ,
Tủi chút phận bơ vơ chiếc nhạn,
Năm canh luống bâng khuâng nhớ bạn,
Nghĩ đàng tên mũi đạn mà thương.
Dám phơ gan giữa chốn chiến trường,
Cam trải mật nằm sương gối vác,
Bà trai giái giữ lòng thành thật,
Cầu cho chồng thắng trận bền quân,
Đặng có thuở long vân tương hội,
Trăng già khiến tóc tơ lỡ mối,
Cuộc ấp yêu xây đổi gối chăn,
Lúc dập dìu tài tử giai nhân,
Lại có kẻ thầm ân trộm ái.
Nhìn quốc sắc mắt kia không nháy,
Thấy phu nhơn lòng lại phải lòng.
Dẫn biết cho là gái có chồng,
Cũng quyết kế tư thông cho đặng.
Bẩm thượng quan, như lịnh phu nhơn!
Vô tình có biết đâu là chẳng,
Cứ tóc tơ căn dặn tấc lòng,
Quyết trăm năm tạc một chữ đồng,
Mặc dầu kẻ thêu rồng vẽ phụng.
Lòng bà thì vậy, còn người trai kia:
Đã chẳng sợ thành tay dục túng,
Dám toan mưu lấy thúng úp voi,
Không kiêng vầng nhựt nguyệt sáng soi,
Cũng chẳng quản miệng đời dị nghị.
Hồ Quốc Thanh:
– Khoan, Đào Anh, khoan, mi nói rằng lịnh bà mi đi cúng chùa, xảy gặp một tay tài tử thấy lịnh bà mi xinh đẹp mà phải lòng, chớ còn lịnh bà mi thì khư khư giữ tiết thờ chồng không dạ loan chông phụng chạ, rồi sao đến đỗi khách tình ấy vào đặng dinh mà trộm ái thầm ân cùng lịnh bà, và người trai ấy là ai; người ở tỉnh nào mà đến? Mi nói phức đi cho ta nghe cho mau, kẻo mà lúc nóng giận ta cho một đao hồn về âm kiểng đi giờ.
Đào Anh:
– Dạ dạ, bẩm thượng quan để thủng thẳng tớ nhớ hết đầu đuôi, là thuật rõ kẽ răng chơn tóc.
Dạ dạ, như người trai ấy:
Diện mạo nhắm cũng nhà quyền quý,
Cùng con dòng thế phiệt trâm anh,
Chẳng phải như những kẻ phụ tình,
Cùng là mặc lầu xanh quen thói.
Mặn vì sắc ngàn vàng quyết đổi,
Nên chẳng nài lặn lối kiếm tầm,
Mong cậy tay xé dải đồng tâm,
Cho bà phải ôm cầm quá biệc,
Tới cửa mụ bán tơ tính việc,
Xưng con dòng phiệt duyệt thế gia,
Ở Quế Châu nhà ngói mấy tòa,
Giả bán ngọc sơn hà dạo khắp.
Vì trời khiến tới đây lại gặp,
Lịnh phu nhơn nhan sắc phi phàm;
Người quyết lòng để bước cầu Lam,
Gần cho đặng kết làm giai ngẫu.
Bẩm thượng quan, tớ nghĩ cho vì thiếu niên ấy tìm đến mụ bán tơ mà cậu làm mai mối nên tớ bẩm khai như vậy, chớ thật, lúc người đến cậy nào có mặt tớ đâu. Mà tớ dám tưởng chỗ nghĩ của tới không sai, hẳn thật người có cậy mụ bán tơ dắt mối, nhưng bởi mụ bán tơ biết rõ khó dễ thế nào, nên:
Mụ tỏ lại cho người hãn thấu.
Trước sau không dám giấu một lời;
Rằng: Phu nhơn chẳng phải chỗ chơi,
Mà bày chuyện lả lơi tình tệ.
Chốn dinh cấm tới lui chẳng dễ,
Ngoài quân canh chẳng dễ vào ra,
Dẫu cho người thân thích trong nhà,
Không có phép, không qua khỏi cửa.
Mai mối phải nay lần mai lựa,
Buộc trói cho đôi lứa yêu đương,
Thì lửa kia có thuở bén hương,
Quá chìu mới chán chường ong bướm.
Nào phải như những ai đâu:
Đỗ một buổi, hương nồng lửa đượm,
Trong nửa ngày thấy bướm ngộ hoa;
Mụ là tay quen thuộc trong nhà,
Còn chưa để qua qua lại lại.
May phụ nữ, phép còn không thế cãi,
Huống nam nhân đâu trái lịnh quan;
Thôi cậu đừng tính chyện vơ quàng,
Hại mụ phải thác oan tội nghiệp.
Giải rồi mụ lại còn nói tiếp,
Phải chi hàng thê thiếp còn mong;
Người không nghi sứ điệp tin ong,
Mượn buôn bán vào trong may đặng,
Tay giàu có bạc tiền đã sẵn,
Mặc dầu lòng đổi trắng thay đen,
Lòng đang mong hương lửa nhuốm nhen,
Nệ chi cuộc bèo sen khác bực.
Hồ Quốc Thanh:
– Đào Anh, mi nói mụ bán tơ không dám làm mai, lại nói phải chi người là đờn bà con gái, đồng phe phụ nũ với nhau mụ lấy cuộc bán buôn làm cớ mà dẫn biến thì họa may; chẳng hay mụ nói vậy, rồi người thiếu niên ấy làm làm sao vào dinh đặng mà mi gọi trong tay có sẵn bạc tiền, muốn đổi trắng thay đen cũng dễ? Có phải mi muốn nói người đem vàng bạc mà lót đàng, nên quân môn tử vì của hối ấy để cho người thâm nhập chăng?
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan không! Quân canh có rõ chi đâu! Tớ nói như vậy là ý tớ muốn chỉ khi nghe mục bán tơ hay tỏ thiệt hơn rồi, vì thiếu niên ấy liền ngụ ý:
Sanh một kế cải trang hình thức.
Giả dối vào làm bức phu nhơn:
Họa quỷ thần rõ thấu nguồn cơn,
Người dễ biết cơ gian cho đặng.
Mụ dì biết mà túi tham quá nặng,
Ngửa hai bàn tay trắng lãnh vàng.
Đã chẳng ghê họa gởi tội tràng,
Dám lãnh mạng đem đàng dắt ngõ.
Bẩm thượng quan, còn như lịnh phu nhơn:
Tính ngay thật cơ gian nào rõ,
Bà không tường rắn nọ có chơn;
Lầm tưởng cho là bọn phụ nhơn,
Không tính thiệt so hơn chi cả.
Hồ Quốc Thanh:
– Đào Anh, mi nói bà mi lầm tưởng người mà mụ bán tơ dẫn kiến đó là phụ nhân, nên bà mi cho vào dinh bán ngọc; ta hỏi mi: Bà mi mắc lầm mà cho vào bán buôn thong thả lỡ vậy thì thôi, bán rồi thì ra; dầu người có năn nỉ ỷ ôi cách nào mà xin ở lại trong dinh một đêm cũng không đặng; vì là dinh cấm; cớ sao người bán rồi lại còn đặng ở lại trong dinh mà tư tình với bà mi mà mi gọi bà mi trong sạch hử? Mi chớ có chở che cho bà mi mà xảo ngôn; ta e cho mi giấu đầu lòi đuôi mà chết không kịp trối bây giờ!
Đào Anh:
– Bẩm thượng quan, tiện tì mô dám lộng ngôn xảo ngữ cùng thượng quan. Thật thì lịnh nhu nhơn lầm: bởi tin nên mắc, bởi nghe nên lầm, lầm gian kế đến đỗi phải cam chịu cho người bán ngọc ở đêm trong dinh cũng vì:
Người bán ngọc là tay đa trá,
Dầu quỷ thần cũng chả biết đâu,
Bao nhiêu châu xỏ lại một xâu,
Một đầu gút, một đầu lại thả
Hữu tình khéo biến sanh kế lạ,
Khác nào đo hàm cá uốn câu:
Vô ý, bà có rõ thấu đâu,
Mới cầm lấy xâu châu sút sổ.
Bà cũng ngỡ tại bà làm đổ,
Hột châu văng chẳng chỗ nào không,
Bà sượng sùng đứng sững như trồng,
Cứ lấy mắt mà trông trơ tráo,
Giây phút tớ nghe bà dặn bảo,
Bà dặn đoàn thế nữ,
Đừng đứa nào lạo xạo vào ra:
Để cho người với một mình bà,
Ngồi mà lượm châu sa kẻo mất,
Bẩm thượng quan, lúc bấy giờ đây:
Nhựt đã xế tây đài hầu khuất,
Nghe đồng hồ,
Đổ bảy giờ chưa dứt tiếng chuông;
Ngoài vịt gà thôi thoát vô chuồng,
Trời lại có mưa tuôn rỉ rả.
Bà ngồi lượm, mượn lời tao nhã,
Tiếc than cho mát dạ mát lòng:
“Khúc rủi ro khiến chuyện mắc công,
Lượm tới sáng cũng không hay hết!”