Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Nam Bình nhất vọng ức nhân long (1),
Hồ hải thao thao thủy thệ đông.
Thiêu dã vãn mê giang khẩu hỏa,
Phố vân tình quyển thạch đầu phong.
Yên ba sạ tán thôn Ngô hận, (2)
Đài tạ do lưu phụ Hán công.
Dục nhận thiên thu kinh hoạch địa,
Thanh sương tử điện ái sơn trung.
Dịch nghĩa: Qua núi Nam Bình hoài cổ
Nam Bình thoạt trông nhớ Rồng Người,
Hồ hải cuồn cuộn nước chảy về đông.
Đốt đồng tối chập chờn lửa ở cửa sông,
Mây bến trời tạnh cuốn lên, gió trên tảng đá.
Khói sóng thoắt tan mối hận nuốt nước Ngô,
Đài tạ lưu công lao phò nghiệp Hán.
Muốn nhân dấu thiên thu nơi vạch đất chia ba,
Sương xanh chớp tía trong núi mây mù mịt.
Chú thích
(1): Nhân long: chỉ Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, còn có hiệu là Ngọa Long.
(2): Thôn Ngô hận: Hận về chuyện nước Ngô.
Hoài Anh dịch thơ
Nhìn Nam Bình nhớ Ngọa Long,
Hải hồ nước chảy về đông kìn kìn.
Đốt đồng lửa cửa sông nhen,
Bến mây tạnh cuốn, gió trên đá gò.
Khói sóng tan hận thôn Ngô,
Đài tạ vẫn nhắc công phò Hán gia.
Đâu nơi vạch đất chia ba?
Sương xanh chớp tía, la đà mây non.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.