Tiêu Tương chu hành tạp hứng

Nguyên tác chữ Nho (*)

Phiên âm

I. Dạ tửu hứng

Hàn đăng thiêu bạch nhật,

Sơ vũ tẩy hoàng hôn.

Trúc sái Tương phi lệ,

Giang lưu Sở khách hồn.

Nhàn vân quy cổ động,

Tân nguyệt điếu cô thôn.

Hồi thủ hương quan dị,

Hô đồng thả mãn tôn.

II. Triêu họa hứng

Hiểu khán bồng song ngoại,

Giang thiên cảnh sắc u.

Thôn cô trang địa diện,

Dã tẩu thế sơn đầu.

Diểu diểu bạch vân quyển,

Thao thao bích thủy lưu.

Hộ đồng khai họa phả,

Điểm nhiễm tả tùng thu

III. Ngọ Trà hứng

Ngọ quyện bất thành mộng,

Lâm lưu trạc túc tần.

Giải y kinh tác chủ,

Khuynh cái mạn phùng nhân.

Hạ thử nhược vô khốc,

Nam phong vị đáng nhân.

Trà âu năng tả muộn,

Hô trĩ hấp giang tân.

IV. Vãn thi hứng

Thôn lạc yên sơ tụ,

Tình giang thử tiệm thanh.

Ngưu quy phương thảo nhuận,

Ngư xướng vãn phong khinh.

Phẫu phúc sơn đầu đột,

Luyện phô thủy diện bình.

Hô đồng cung bút mặc,

Sách vận phú tao hình.

Dịch nghĩa: Đi thuyền ở sông Tiêu Tương tạp hứng

I. Hứng uống rượu ban đêm

Ngọn đèn lạnh đốt tàn mặt trời,

Giọt mưa thưa rửa sạch chiều tối.

Lá trúc nhỏ nước mắt Tương phi,

Dòng sông trôi hồn khách nước Sở.

Đám mây lơ lửng về cổ động,

Mảnh trăng đầu tháng viếng cô thôn.

Quay đầu nhìn nẻo quê hương thấy có vẻ xa lạ,

Gọi tiểu đồng hãy rót chén rượu đầy.

II. Hứng vẽ buổi sáng

Sáng sớm nhìn ra ngoài cửa thuyền,

Cảnh sắc trời sông có vẻ lờ mờ.

Cô gái làng trang điểm cho mặt đất,

Ông lão nhà quê cạo cái đầu núi.

Làn mây trắng cuốn vèo vèo,

Dòng nước biếc chảy cuồn cuộn.

Gọi tiểu đồng mở tập bản vẽ,

Tô điểm cảnh sắc cây tùng cây thu.

III. Hứng uống trà buổi trưa

Giữa trưa mệt mà không ngủ được,

Luôn luôn thả chân xuống sông rửa.

Sợ mình là chủ không dám cởi áo,

E gặp người quen thì phải nghiêng lọng.

Nếu nắng mùa hè không gay gắt,

Thì gió nồm nam chưa thật nhân.

Ấm trà có thể giải buồn,

Gọi trẻ ra bến sông múc nước.

IV. Hứng thơ buổi chiều

Khói ở xóm làng mới nhóm lên,

Nắng ở trên sông đã nhạt dần.

Đàn trâu về, cỏ thơm tươi nhuần,

Thuyền chài hát, gió chiều thổi nhẹ.

Đầu núi nhô như nồi úp,

Mặt nước phẳng như lụa phơi.

Gọi tiểu đồng đem bút mực,

Lựa vần giải bày tình thơ.

Hoài Anh dịch thơ

I. Hứng uống rượu ban đêm

Ngọn đèn lạnh đốt tàn vầng nhật,

Giọt mưa thưa rửa sạch hoàng hôn.

Lệ Tương phi khóm trúc tuôn,

Dòng sông trôi vấn vương hồn Khuất Nguyên.

Mây lơ lửng về triền động cổ,

Trăng thượng huyền viếng chỗ thôn xa.

Quay đầu lạ cảnh quê nhà,

Bớ tiểu đồng: Rót cho ta chén đầy.

II. Hứng vẽ buổi sáng

Nhìn ra ngoài cửa bồng buổi sớm,

Cảnh trời sông thoáng đượm u sầu.

Gái quê tô đất đẹp màu,

Ông già thôn xóm cạo đầu núi non.

Làn mây trắng bon bon gió cuốn,

Dòng nước xanh cuồn cuộn bọt tung.

Mở tập bản vẽ, tiểu đồng!

Điểm tô cảnh sắc cây tùng cây thu.

III. Hứng uống trà buổi trưa

Giữa trưa mỏi mà không ngủ được,

Luôn thả chân rửa nước dòng xanh.

Không dám cởi áo, e mình,

Phận là chủ, phải tiếp nghinh bạn bè.

Nếu chẳng gặp nắng hè gay gắt,

Gió nồm nam chưa thật dịu hòa.

Giải buồn tạm mượn ấm trà,

Lấy nước sông về cho ta, tiểu đồng.

IV. Hứng thơ buổi chiều

Khói ở xóm thôn vừa tụ lại,

Sông trời quang nắng quái nhạt dần.

Trâu về, cỏ ngát tươi nhuần,

Gió hiu, tiếng hát vang ngân thuyền chài.

Đầu núi nhô như nồi úp sấp,

Mặt nước bằng tựa tấm lụa phơi.

Tiểu đồng! Bút mực đâu rồi?

Đem cho ta, tả tình hoài nên thơ.


(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.

Viết một bình luận

error: Content is protected !!