Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Năng ngôn anh vũ cổ lai trên,
Thùy ái lô từ sự chủ nhân.
Nhật vị ngư gia sinh kế túc,
Thời kinh thủy tộc nghiệp oan tần.
Phi cầm hữu loại phân mao vũ,
Tiềm vật vô đoan nhận giáp lân.
Nhược sử thế nhân tri tảo súc,
Trạch lương kim nhật bất chinh tuần.
Dịch nghĩa: Chim cốc
Vẹt biếc nói xưa nay vẫn được quý,
Ai yêu chim cốc thờ chủ nhân.
Ngày giúp cho người đánh cá sinh kế no đủ,
Luôn làm thủy tộc kinh hãi, gây nhiều nghiệp oan.
Giống cầm hay có từng loại phân lông mao lông vũ,
Vật chìm dưới nước không biết đâu mà nhận mai vẩy.
Nếu người đời sớm biết nuôi,
Ao đầm nay không cần người đi tuần thu thuế.
Hoài Anh dịch thơ
Vẹt biết nói quý từ xưa,
Ai yêu chim cốc phụng thờ chủ nhân.
Giúp nhà chài sống đủ ăn,
Bắt tôm mò cá nhọc nhằn góp công.
Chim bay phân biệt nhờ lông,
Vật dưới nước khó nhận dòng, mai vây.
Nếu người sớm biết nuôi mày,
Ao đầm nay chẳng cần ai tuần phòng.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.