Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Bất quan lữ huống trọng chinh xa,
Tản bộ nhanh đầu chước tử hà.
Lưỡng tụ đề huề phong lý trúc,
Bán trần đạm đãng vũ tiền hoa.
Thanh tùy Nộn Ngọc (2) trường lưu thủy,
Bạch vọng Lưu Vân (3) vạn lý gia.
Sái lạc vô ky hồ thỉ chí,
Thử sơn hà tất hận thiên nhai (nha).
Dịch nghĩa: Chơi chùa núi Thê Hà
Không bận tâm đến cảnh đất khách xe đi công việc hệ trọng,
Tản bộ đầu núi đón ráng tía.
Hai tay áo gió trúc đề huề,
Nhẹ nửa lòng trần hoa trước mưa.
Xanh theo dòng ngọc chảy dài suối Nộn Ngọc,
Trắng vọng đình Lưu Vân nhà vạn dặm.
Thanh thoát không bị ràng buộc là chí hồ thỉ,
Núi này hà tất hận phải ở chân trời góc biển.
Chú thích
(1): Chú thích của tác giả: Núi ở tỉnh thành Quảng Tây bờ bên kia Tiền Giang, lúc bấy giờ xe sứ dừng đóng lại ba bốn tháng nên có cuộc chơi này.
(2): Chú thích của tác giả: Nộn Ngọc tên suối trong núi.
(3): Chú thích của tác giả: Lưu Vân tên đình trong chùa.
Hoài Anh dịch thơ
Không bận tâm cuộc sứ trình,
Đầu non tản bộ đón nghênh ráng màu.
Trong tay áo gió trúc chao,
Hoa trước mưa, bụi trần tiêu nửa mà.
Trong theo Nộn Ngọc suối sa,
Lưu Vân đình trắng muôn nhà xúm quanh.
Chí hồ thỉ thả thông thênh,
Núi này chẳng hận chênh vênh góc trời.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.