Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Sương điêu tàn diệp lộ nhu chi,
Bất giác niên hoa dĩ hoán thì.
Mộng nhập bôi quyền pương trạch tại,
Vọng hồi phần tử bạch vân (1) trì.
Quan sơn hữu lộ khiên ly hận,
Hồ hải vô giai đạt hiếu tư.
Nan giả tang bồng cung trở đậu, (2)
Dã ưng hối tác hảo nam nhi.
Dịch nghĩa: Giữa đường nhớ ngày giỗ mẹ cảm hoài
Sương làm lá tàn tạ móc đầm cành,
Bất giác đã quá tuổi xuân xanh.
Mộng về cái chén và bát bằng gỗ, ơn dày còn đó,
Nhìn về quê hương mây trắng lững lờ.
Quan san có đường khêu gợi hận biệt ly,
Hồ hải không có bậc để đạt được lòng hiếu.
Khó mượn tang bồng để cung cấp đồ cúng tế,
Cũng nên hối đã làm trang nam nhi giỏi.
Chú thích
(1): Phần tử: ghép từ hai chữ Phần du và Tử lý để chỉ quê hương.
(2): Trở đậu: đồ dùng trong việc tế lễ.
Hoài Anh dịch thơ
Sương cỗi lá móc đầm cành,
Tháng ngày thấm thoát tuổi xanh đã chầy.
Mộng về chén bát ơn dày,
Quê hương ngoảnh lại làn mây trắng màu.
Quan san, ly hận càng sâu,
Hải hồ, chữ hiếu dễ đâu vẹn toàn.
Tang bồng khôn đỗi cỗ bàn,
Cũng nên hối đã trót làm tài trai.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.