Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Nam hương giang khẩu biệt thôn khư,
Long mẫu từ biên đối thạch cừ.
Thụ nhiễu hồng vân môn phệ khuyển,
Than hồi bích lãng thủy kinh ngư.
Sơn tùng thanh lạc vi phong hậu,
Ngạn trúc chi đê tế vũ dư.
Thi cú tự tàm đương vật sắc,
Tầm thường liêu kỷ nhật trình thư.
Dịch nghĩa: Ghi điều trong thấy ở đầm Nam Hương
Cửa sông Nam Hương cách thôn xóm,
Bạn đền Long mẫu đối với ngòi đá.
Cây, mây hồn quấn, quanh cửa chó sủa,
Bãi sóng biếc đánh vào, nước làm cá kinh hãi.
Tùng núi tiếng buông sau gió nhẹ,
Trúc bờ cành thấp mưa bụi còn đọng lại.
Câu thơ tự thẹn coi là vật để hình dung ra mình,
Tầm thường tạm ghi nhật ký chuyến đi.
Hoài Anh dịch thơ
Bến Nam Hương cách làng thôn,
Bên đền Long mẫu đổi con ngòi đầy.
Cửa chó sủa, mây quấn cây,
Bãi dào sóng biếc khiến bầy cá kinh.
Tiếng thông gió nhẹ đưa nhanh,
Ngấn mưa còn đọng trên cành trúc lay.
Thẹn thơ đó tức người đây,
Tạm ghi chép việc hàng ngày chuyến đi.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.