Đối với triều đình và dân gian, trong tháng Tám vốn có hai ngày cực kì quan trọng, một là tết Trung Thu, Mười lăm tháng Tám, hai là ngày đại thọ của Hoàng đế, ba mươi tháng tám.
Tuy nhiên, do đang trong thời gian quốc tang Thái hoàng thái hậu, tất cả lễ mừng đều không tổ chức, cho nên ngày tết Trung Thu chỉ miễn lên triều, đại thọ của Hoàng đế chỉ vẻn vẹn thu biểu chúc mừng từ các nơi gửi tới, hậu cung và các trọng thần trong tôn thất tổ chức mấy buổi tiệc nhỏ là xong.
Tiệc mừng thọ chỉ tổ chức đơn giản nhưng các trọng thần hoàng tộc vẫn phải dâng lễ vật mừng thọ theo đúng thông lệ. Đây luôn là lúc họ phân cao thấp, mọi người đều tốn không ít tâm tư.
Thái tử tặng một bức bình phong lớn thêu rồng gồm chín tấm, cực kỳ tinh xảo, sặc sỡ chói mắt, vừa khiêng ra mọi người đã tới tấp than thở, khen ngợi. Dự vương thì không biết vơ vét từ đâu được một tảng đá Thái Hồ cao gấp đôi người thường, thiên nhiên ăn mòn thành dáng dấp một chữ thọ, đẹp đẽ đặc sắc, cũng là trân phẩm hiếm gặp.
Các hoàng tử còn lại, có người tặng sách cổ tưởng như đã thất lạc không còn, có người tặng tượng Quan Âm cẩm thạch, món quà nào cũng đáng giá vạn kim.
Tĩnh vương tặng một con chim ưng săn mồi oai vệ, đẹp đẽ, được huấn luyện rất kĩ càng, hiên ngang đậu trên cánh tay Hoàng đế Đại Lương, nghiêng đầu đối mặt với Hoàng đế làm Hoàng đế rất vui vẻ cười to.
Hoàng đế Đại Lương bề ngoài đều yêu thích, khen ngợi những món quà mừng thọ này, nhưng vì mấy tiếng cười to kia, không ít người đã âm thầm nhìn ra vài manh mối.
Do trong thời gian quốc tang không thể tấu nhạc nên bầu không khí bữa tiệc nhạt nhẽo hơn bình thường. Mặc dù thần tử đều cố gắng nói cười vui vẻ nhưng Hoàng đế Đại Lương vẫn không hào hứng, chỉ nhận mấy lượt kính rượu rồi khởi giá về hậu cung.
Trong ngự hoa viên, Hoàng hậu đã sắp xếp lục cung bày tiệc chờ đợi.
Hoàng đế Đại Lương đã uống vài chén rượu từ ngoại điện, ngả nghiêng dựa vào gối mềm nhận lời chúc mừng của các hậu phi, mệnh phụ. Do thấy mỏi lưng nên sau khi nhận lời chúc xong, ông ta liền lệnh cho Tĩnh phi tới ngồi bên cạnh xoa bóp, hai mắt lúc nhắm lúc mở nhìn xuống bên dưới.
Tuy là ngày mừng thọ của Hoàng đế nhưng trong thời gian quốc tang có những quy định chặt chẽ về xiêm y, mọi người vừa không dám trang điểm quá đậm lại không dám không trang điểm, vì vậy khung cảnh không rực rỡ hoa lệ như những năm trước mà có vẻ nhẹ nhàng, tao nhã.
Mệnh phụ của các tôn thất và triều thần hành lễ xong, tất cả đều lui ra ngoài, trong điện chỉ còn lại cung phi và công chúa.
Hoàng hậu đương nhiên là người đầu tiên nâng rượu kính chúc, sau đó là Việt quý phi.
Do Thái tử liên tiếp bị trách tội nên Việt quý phi ở trong cung cũng thấp điệu hơn trước rất nhiều.
Hôm nay bà ta chỉ vẽ lông mày và tóc mai, không tô son thoa phấn, khuôn mặt trắng xanh mang nụ cười nhàn nhạt, không còn vẻ diễm lệ kinh người trước kia mà khiến người ta cảm thấy thương hại.
Hoàng đế Đại Lương nhận chiếc chén vàng từ bàn tay trắng nõn nà của bà ta, uống một ngụm, nhìn dáng vẻ bà ta phục tùng cam chịu, lại nhớ tới vừa rồi trong ngoại điện, Thái tử cũng rụt rè, mặt mũi gầy guộc, trong lòng lập tức mềm nhũn.
Mặc dù ông ta tức giận vì Thái tử có hành vi không đúng nhưng dù sao cũng đã nhiều năm ân sủng mẫu tử hai người này nên tình cảm vẫn còn.
Huống hồ bây giờ tuổi đã cao, có lúc soi gương thấy tóc mai đã điểm bạc, bắt đầu có những lo nghĩ tuổi già, tâm tính dù sao cũng không thể tàn nhẫn, tuyệt tình như năm đó nữa.
“Gần đây nàng hơi gầy, hay là không khỏe? Nên truyền ngự ý đến khám xem sao…” Hoàng đế Đại Lương vỗ vai Việt quý phi, dịu dàng nói. “Dạ Tần vừa tiến cống một ít chì than ốc, buổi chiều trẫm sẽ sai người đưa đến chỗ nàng.”
“Tạ ơn Bệ hạ.” Việt quý phi mắt hoe đỏ, nhưng trong một ngày thế này lại không thể rơi lệ nên cố gắng nhịn khóc, hai mắt long lanh nước, sóng mắt lấp lánh xao động.
Hoàng đế Đại Lương càng nhìn, trong lòng càng thêm thương yêu, cầm tay kéo bà ngồi xuống bên phải mình, thấp giọng nói chuyện với bà.
Hoàng hậu bực bội, không khỏi nhìn Tĩnh phi đang ngồi phía sau đấm vai cho Hoàng đế. Thấy Tĩnh phi buông mắt, vẻ mặt bình thản, trong lòng biết không thể trông chờ bà thu hút sự chú ý của Hoàng đế Đại Lương được.
Đang tính đi tính lại, chợt nhìn thấy mấy tiểu công chúa bên cạnh, Hoàng hậu vội đưa tay ra hiệu cho các nàng tiến lên chúc rượu.
Cũng như tiệc mừng thọ tại ngoại điện, bữa tiệc trong nội điện không kéo dài lâu.
Rượu qua ba tuần Hoàng đế Đại Lương cảm thấy mệt mỏi, dặn dò Hoàng hậu dừng tiệc, ban thưởng theo thường lệ, sau đó khởi giá về tẩm cung của mình nghỉ ngơi.
Có lẽ vì mệt nhọc, có lẽ vì uống rượu, hôm sau Lương đế cảm thấy mệt mỏi chán ăn, truyền chỉ không lên triều một ngày.
Ngự y lập tức được truyền vào cung, sau khi chẩn trị kĩ lưỡng lại thấy không có bệnh nặng gì, chỉ kê thuốc bổ, ngâm nước ấm.
Chính bản thân Lương đế cũng cảm thấy mình chỉ chán nản, không muốn làm việc gì chứ thân thể không có nơi nào đau mỏi rõ ràng, không muốn gây động tĩnh quá lớn, truyền chỉ lệnh cho các hoàng tộc triều thần không cần vào cung thăm hỏi, buổi chiều thức dậy quả nhiên tinh thần đã sảng khoái hơn nhiều.
Mặc dù sức khỏe đã tốt hơn nhưng ông ta vẫn không muốn xử lý việc triều chính, vừa đọc được mấy trang sách, đột nhiên nhớ đến vẻ mặt hốc hác của hai mẫu tử Việt quý phi hôm qua. Một ý nghĩ nảy ra tronng đầu, ông ta lập tức gọi Cao Trạm sắp xếp xa giá, lặng lẽ đến Đông cung thăm Thái tử để biểu thị ân huệ.
Hoàng đế nói phải “lặng lẽ” thì đương nhiên không thể truyền báo trước, Cao Trạm chỉ thông báo cho đại thống lĩnh cấm quân Mông Chí sắp xếp phòng vệ. Xa giá không rầm rộ, kể cả Mông Chí và tùy tùng cũng chỉ có hơn mười người, nhanh chóng đi tới trước cửa Đông cung.
Thánh giá đột nhiên tới, đám người canh gác trước cửa đông cung hoảng hốt cuống cuồng, tới tấp quỳ rạp xuống đất.
Vì Hoàng đế đã đến trước mặt, mọi người phải thi lễ, ai cũng không dám đứng dậy chạy vào trong, không một ai đi vào bẩm báo Thái tử.
“Thái tử đang làm gì?” Hoàng đế Đại Lương thuận miệng hỏi.
Một người mặc phục sức nội sử lục phẩm nơm nớp lo sợ đáp: “Hồi… hồi bẩm Bệ hạ, Thái tử điện hạ đang… đang ở bên trong…”
“Nhảm nhí! Không ở bên trong thì ở đâu? Trẫm hỏi Thái tử làm gì ở trong đó?”
“Hồi… hồi bẩm Bệ hạ… nô tài không… không rõ…”
Cao Trạm thấy hắn trả lời quá mất mặt, vội chuyển đề tài: “Bệ hạ, bảo bọn chúng vào thông báo cho Thái tử điện hạ ra tiếp giá chứ?”
Hoàng đế Đại Lương ờ một tiếng.
Cao Trạm tiện tay chỉ tên nội sử vừa trả lời, nhỏ giọng nói: “Còn không đi mau!”
Tên nội sử đó khấu đầu, bò lên chạy vào trong. Vì luống cuống nên lúc xuống bậc thang không cẩn thận, giẫm phải vạt áo choàng ngã sấp mặt, lại vội vã bò dậy chạy tiếp, có thể nói là vừa lăn vừa bò.
Thấy dáng vẻ chật vật của hắn, Hoàng đế Đại Lương ở phía sau không nhịn được cười to, nhưng mới cười được mấy tiếng trong lòng lại đột nhiên sinh nghi. Ông ta nhớ rằng tên nội sử đó thường hầu hạ bên cạnh Thái tử, dù phẩm bậc không cao nhưng cũng không phải người chưa từng gặp Hoàng đế, cho dù hôm nay ông ta đến bất ngờ cũng chưa đến mức khiến hắn sợ hãi cuống cuồng như vậy…
“Gọi tên kia quay lại!”
Cao Trạm vội ra lệnh cho tiểu thái giám đuổi theo gọi tên nội sử đó quay lại, dẫn tới quỳ trước mặt Hoàng đế Đại Lương.
“Vừa rồi ngươi nói… ngươi không rõ Thái tử làm gì trong đó?”
Nội sử co rúm, quỳ rạp sát đất không dám ngẩng đầu lên, run giọng nói: “Nô tài thật sự… không rõ…”
Ánh mắt âm trầm của Hoàng đế dừng lại trên mặt hắn chốc lát, lạnh lùng nói: “Tất cả các ngươi đều quỳ ở đây cho trẫm, không được thông báo, không được tự ý đứng dậy. Mông Chí, Cao Trạm, các ngươi theo trẫm đi vào!”
“Vâng.”
Sau khi cúi người lĩnh mệnh, Cao Trạm cảm thấy lo sợ trong lòng. Dù ông ta không biết tình hình trong Đông cung thế nào nhưng luôn cảm thấy có gì đó không đúng, sợ sẽ có sóng gió xảy ra, không khỏi lặng lẽ liếc Mông Chí, muốn xem thái độ Mông Chí thế nào. Không ngờ trên mặt vị đại thống lĩnh này không có biểu cảm gì rõ ràng, chỉ cúi đầu, im lặng đi theo.
Ông ta cũng đành cúi thấp hơn nữa, vừa đi vừa chạy theo Hoàng đế đang càng bước càng nhanh.
Đông cung dù không thể so với cung thành của thiên tử nhưng dù sao cũng là chỗ ở của Thái tử. Từ cổng chính vào đến điện Trường Tín nơi Thái tử ở là một khoảng cách khá xa. Hoàng đế Đại Lương nghi ngờ lúc này Thái tử đang làm gì đó không hay trong đông cung, lòng không vui nên mới quyết định âm thầm đi vào xem tận mắt. Nhưng dù sao tuổi tác của ông ta cũng đã cao, chưa đi được bao lâu đã bắt đầu thở dốc.
Cao Trạm là người hiểu thánh ý nhất, sớm đã chuẩn bị chu đáo, ông ta chỉ giơ tay lên vẫy, chiếc liễn sáu người khiêng vẫn đi theo phía sau liền được khiêng tới.
Hoàng đế được nội thị đỡ ngồi lên liễn, tốc độ lập tức nhanh gấp đôi so với đi bộ như vừa rồi.
Trên đường đi vào đương nhiên gặp không ít người hầu của Đông cung, những kẻ này dù không rõ tình hình nhưng đều hiểu được động tác giữ im lặng của Mông Chí, tất cả tới tấp quỳ xuống ven đường, không một ai dám động đậy.
Qua sân rẽ vào Vĩnh Phụng các, đi thẳng là tới điện Trường Tín.
Hoàng đế bước xuống liễn, vừa đi trên hành lang làm bằng gỗ của điện Trường Tín đã nghe thấy tiếng đàn sáo truyền ra từ bên trong. Ông ta lập tức giận dữ, bước chân cũng nhanh hơn một chút.
Thời gian quốc tang cả nước cấm yến nhạc, đây là lễ chế.
Tuy nhiên, thời gian quốc tang ba năm hơi dài, thời gian sau này trong dân gian có không ít người vi phạm, chỉ cần không công khai, không quá mức, không bị ai tố cáo thì triều đình cũng coi như không thấy.
Nhưng Thái tử dù sao cũng không phải người thường, thứ nhất hắn là Thái tử, thứ hai là con cháu trực hệ của Thái hoàng thái hậu, chịu hai tầng quốc hiếu gia hiếu, huống hồ bây giờ cũng chưa đến cuối thời gian để tang, thậm chí còn chưa được nửa năm, vậy mà Đông cung đã bắt đầu diễn nhạc, thật là vô cùng trái lễ chế.
Đương nhiên không phải Thái tử không biết lúc này diễn nhạc là trái lễ chế, chỉ có điều hắn đã quen hưởng lạc, không chịu được sự yên tĩnh, buồn tẻ, gần đây tâm tình lại buồn bực, không nhịn được muốn giải sầu, hơn nữa hắn cho rằng đóng cửa điện Trường Tín thì có tấu nhạc bên trong, các ngự sử ngôn quan phò tá Đông cung cũng không biết được, vì vậy hành vi mới phóng đãng như thế. Do trước kia phụ hoàng chưa bao giờ đến bất ngờ nên hắn cũng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện ông ta sẽ đi thẳng vào đây.
Hoàng đế Đại Lương đứng trên hành lang trước cửa điện đóng chặt, nghe tiếng nhạc cố ý tấu nhỏ bên trong, sắc mặt vô cùng khó coi.
Nhưng lúc này trong đầu ông ta vẫn sót lại chút lý trí, biết rằng nếu mình xông vào thì tội danh đại bất hiếu vì diễn nhạc trong tang kỳ của Thái tử sẽ không thể chối bỏ, đối với Đại Lương xưa nay lấy hiếu trị quốc thì đây không phải một tội nhỏ, đủ để hủy hoại tất cả đức danh vốn đã mỏng manh của Thái tử. Đến lúc đó không chỉ Thái tử chắc chắn phải phế mà e rất nhiều người liên quan trong Đông cung cũng sẽ bị liên lụy theo.
Cho dù bây giờ đã có ý phế bỏ Thái tử, không còn cảm thấy thương hại, Hoàng đế Đại Lương vẫn muốn làm chuyện này một cách từ tốn, không muốn để một chuyện xảy ra ngoài ý muốn trở thành nguyên nhân phế Thái tử.
Nghĩ đến đây, Hoàng đế cố nén cơn giận trong lòng, không lên tiếng, sầm mặt xoay người, định lặng lẽ đi ra thì đột nhiên có tiếng nói chuyện từ bên trong truyền ra.
“Điện hạ uống một chén nữa đi… Bệ hạ đang ốm, hôm nay không truyền triệu điện hạ, có say cũng không sao…”
Sau giọng nữ nhân điệu đà là một tiếng “hừ” lạnh của Thái tử. “Cho dù phụ hoàng không ốm thì ông ta cũng sẽ không triệu ta. Bây giờ ngoài Dự vương thì trong mắt phụ hoàng đâu còn có ai?”
“Sao điện hạ lại nói vậy? Điện hạ là Thái tử đương triều, là Hoàng đế tương lai, đương nhiên trong mắt Bệ hạ chỉ có ngài…”
“Thôi đi, ta đã nhìn thấu từ lâu rồi, phụ hoàng bạc bẽo đa nghi, luôn mắng ta không tu đức chính… Ông ta cũng không nghĩ lại xem, nếu không phải ông ta nâng đỡ Dự vương lên đối phó với ta thì ta làm những chuyện đó làm gì? Đức hạnh của ta không tốt, chẳng lẽ đức hạnh phụ hoàng tốt lắm?” Nói đến đây, Thái tử lớn tiếng cười thảm, tiếp theo là tiếng nuốt rượu ném chén.
Hoàng đế Đại Lương sắc mặt xanh mét, toàn thân run rẩy vì giận dữ.
Cao Trạm lo lắng đến gần, đưa tay định đỡ ông ta nhưng lại bị đẩy mạnh ra, gần như ngã bệch xuống đất.
Hoàng đế Đại Lương không thèm nhìn ông ta, chạy vài bước xuống bậc thềm, rút nhanh trường đao bên hông Mông Chí ra, lại xoay người chạy lên.
Cao Trạm sợ đến mặt mày tái mét, quỳ tiến lên mấy bước ôm đùi Hoàng đế, nhỏ giọng khóc lóc: “Bệ hạ suy tính cẩn thận! Bệ hạ suy tính cẩn thận!”
Thực ra Hoàng đế Đại Lương chỉ nhất thời phẫn nộ chứ cũng không biết mình muốn làm gì, chỉ cầm đao xông đến bên ngoài cửa điện đóng chặt lại cảm thấy ngỡ ngàng, sau đó xoay tay vung đao chém mạnh vào cột gỗ sơn son trước cửa điện, để lại một vết đao thật sâu, rồi giận dữ ném đao xuống đất, sải bước xoay người đi ra.
Động tĩnh này không nhỏ, Thái tử trong điện đã giật mình phát hiện, vội lao ra ngoài xem. Chỉ thoáng thấy một góc áo bào màu vàng sậm của Hoàng đế biến mất bên ngoài cổng điện, quay lại nhìn vết đao trên cột, đầu óc lập tức ong ong, xương cốt toàn thân như bị rút sạch, cả người mềm nhũn, ngã xuống đất.
Hoàng đế Đại Lương giận dữ rời khỏi điện Trường Tín trong Đông cung, không ngồi liễn, không cần ai dìu, đi quá vội vã. Vừa đến Vĩnh Phụng các chợt thấy trước mắt tối sầm, cả người ngã về phía sau, may mà Mông Chí nhanh chóng đỡ được nên mới không bị thương. Cao Trạm vội lấy hộp hương an thần trong tay áo ra, thổi chút bột vào trong mũi Hoàng đế. Ông ta hắt hơi một cái, hai mắt đỏ ngầu mới dần dần trấn tĩnh lại.
“Bệ hạ…” Mông Chí vuốt lưng điều khí cho ông ta, đỡ đến ngồi trên tảng đá lớn ven đường, chậm rãi khuyên nhủ: “Long thể là quan trọng nhất, xin Bệ hạ bảo trọng.”
Hoàng đế cầm khăn tay Cao Trạm đưa, lau mắt dựa người vào Mông Chí, nặng nề thở dốc.
Sau một lúc, lửa giận tràn ngập trong lồng ngực cũng tắt dần, thay vào đó là cảm giác bi thương và buồn bã khiến ông ta không khỏi rơi lệ, cúi người ho một hồi, nếp nhăn trên mặt hình như sâu hơn một chút.
“Mông khanh… Đông cung Thái tử oán giận như thế, chẳng lẽ trẫm thực sự đã làm sai hay sao?”
Mông Chí bị ông ta hỏi thì ngẩn ra, nhất thời không biết nên trả lời thế nào. Ông ta đến bên cạnh Hoàng đế đảm nhiệm chức thống lĩnh cấm quân đã lâu, nhưng nhiều năm nay chỉ thấy vị Hoàng đế này dùng vô số thủ đoạn để khống chế, cân bằng các hạ thần và hoàng tử, chưa bao giờ nghi ngờ cách làm của bản thân, cũng chưa bao giờ tỏ ra lực bất tòng tâm. Mông Chí đã bao giờ thấy ông ta ảo não, cảm khái, mềm yếu, đau lòng như một phụ thân bình thường đâu. Nhìn mái tóc hoa râm, đôi tay khô héo run rẩy, đôi mắt vẩn đục già nua, hồi tưởng lại khí chất cay độc sát phạt của ông ta năm đó, Mông Chí không khỏi ngỡ ngàng, cảm thấy vô cùng lạ lẫm.
Có lẽ khi về già, con người sẽ thay đổi rất nhiều…
“Bệ hạ, chuyện ở Đông cung, Bệ hạ định…” Mông Chí hỏi được nửa câu, chợt thấy không ổn, vội nuốt nửa câu còn lại vào bụng.
Hoàng đế Đại Lương đưa tay áo lên lau nước mắt, cắn răng suy nghĩ hồi lâu, sắc mặt phân vân do dự, cũng không ai dám hỏi han gì. Sau thời uống nửa tách trà, ông ta mới dặn dò: “Chuyện hôm nay nghiêm lệnh không được truyền ra ngoài, tạm thời phải giữ kín.”
Mông Chí và Cao Trạm nghe vậy đều bất ngờ nhưng không để lộ ra mặt mà chỉ lặng lẽ lĩnh mệnh.
Có điều Hoàng đế Đại Lương chưa bao giờ là người độ lượng, sau một lúc trầm ngâm, ông ta bổ sung: “Từ giờ trở đi, đóng cửa Đông cung, tất cả mọi người không được tùy ý ra vào.”
Mông Chí chần chừ rồi hỏi: “Bao gồm cả Thái tử sao?”
“Bao gồm cả Thái tử!” Giọng Hoàng đế Đại Lương mang vẻ xót xa nhưng cũng rất kiên quyết. “Không có ý chỉ của trẫm thì cả thầy dạy của Thái tử cũng không được vào. Mông Chí, ngươi đi làm việc này đi!”
“Xin Bệ hạ thứ tội!” Mông Chí quỳ xuống, nói. “Giam lỏng Thái tử là chuyện trọng đại, chỉ phụng khẩu dụ thì thần khó có thể thực hiện. Xin Bệ hạ ban thánh chỉ!”
Hoàng đế Đại Lương nhìn ông ta một cái, đang định nói thì Cao Trạm xen vào: “Bệ hạ, Thái tử điện hạ đã đuổi theo tới đây, đang quỳ bên cạnh Tiên Dịch trì, Bệ hạ có gặp hay không?”
“Kêu nó về, bây giờ trẫm… không muốn gặp nó…” Hoàng đế Đại Lương nhắm mắt, giọng nói hết sức mệt mỏi. “… Khiêng liễn tới đây, hồi cung…”
“Bệ hạ!” Mông Chí hơi sốt ruột. “Thần bên này…”
“Truyền liễn!” Giọng nói the thé của Cao Trạm vang lên ngắt lời Mông Chí.
Lúc này Hoàng đế đã đứng dậy đặt chân lên bàn đạp, lắc lư không yên. Dưới sự chỉ huy của Cao Trạm, ba, bốn tiểu thái giám chạy tới đỡ, cuối cùng Hoàng đế mới ngồi được vững vàng.
“Bệ hạ…” Mông Chí đợi Hoàng đế ngồi yên ổn, đang định nói tiếp, Cao Trạm lại cao giọng nói: “Khởi giá!”, làm át mất tiếng ông ta.
Lúc Mông Chí cau mày bước một bước đến gần, Lương đế đã dựa vào đệm mềm, nhắm mắt lại phất phất tay. Lúc này, vẻ mặt ông ta đầy bi ai, động tác này rõ ràng là không cho người nào quấy rầy. Mông Chí mặc dù khó xử nhưng cũng đành không hỏi nữa, quỳ xuống tiễn ông ta về.
Thánh giá rời khỏi, Đông cung yên lặng như chết.
Mông Chí kìm nén một tiếng thở dài cảm khái, lập tức bắt đầu xử lý công việc tiếp theo. Giấu kín chuyện ở điện Trường Tín hôm nay cũng không khó, số binh lính cấm quân đi theo không nhiều, Mông Chí đương nhiên có thể hạ lệnh cấm tiết lộ ra ngoài, những người trong nội đình thì Cao Trạm sẽ xử lý, người của Đông cung càng không dám nhiều lời, cho nên tất cả dễ dàng phong tỏa tin tức một cách triệt để.
Nhưng chuyện cấm tất cả mọi người ra vào Đông cung thì khó hơn một chút, bản thân Thái tử còn đỡ, chính hắn biết rõ nguyên nhân bị giam lỏng, không dám làm ầm ĩ, thấy vậy những người khác trong Đông cung càng không dám lên tiếng, vì vậy việc khó nhất là cấm những người từ bên ngoài đi vào.
Những người khác thì không sao, nhưng ba vị thầy của Thái tử là thiếu sư, thiếu bảo và thái phó ngày nào cũng phải tới gặp Thái tử. Những người này dù không phải người trong phe cánh đấu đá nhưng lại một lòng một dạ thực hiện chức trách của mình. Thái tử có lỗi, họ lập tức sẽ dâng sớ lên án mạnh mẽ nhất, nhưng lúc Thái tử bị chuyển tới cung Khuê Giáp, người bảo vệ mạnh mẽ nhất cũng chính là họ. Có điều, những hạ thần đạo mạo này giờ đây đã không có thực quyền trong triều, không còn quan trọng như trước nên Thái tử chỉ kính trọng bọn họ chứ không dựa vào bọn họ, Dự vương coi trọng bọn họ lại không kiêng kỵ bọn họ. Rất nhiều trường hợp họ chỉ mang tính tượng trưng, vai trò trong cuộc đấu đá phe cánh, giương cung bạt kiếm ngươi lừa ta gạt lại không lớn.
Nhưng bất kể có thực quyền hay không thì các vị lão tiên sinh này cũng là tam sư của Thái tử, chỉ bằng bốn chữ “Thánh thượng khẩu dụ” mà không thể nói rõ nguyên do, Mông Chí muốn cản bọn họ bên ngoài thì quả là rất khó.
Hơn nữa, việc lớn chấn động thiên hạ như giam lỏng đông cung Thái tử mà không có chỉ dụ rõ ràng thì cũng khó tránh khỏi làm người ta nghi ngờ.
Sau khi bị tam sư giày vò đủ một canh giờ, miệng khô lưỡi khô, Mông Chí đột nhiên hiểu ra cách làm của mình quá ngốc, không dưng lại đi giải thích làm gì, bây giờ đâu phải lúc phân bua, mà trong chuyện này cũng không đến lượt ông ta đứng ta giải thích, cho nên cách làm này đã sai ngay từ đầu.
Sau khi nghĩ ra được điểm này, Mông Chí lập tức biết nên làm thế nào.
Tìm cớ tránh mặt một lát, Mông Chí sai mấy tiểu binh cứng rắn đến đứng gác ở cổng Đông cung, dù ai nói gì cũng chỉ đáp lại một câu: “Phụng khẩu dụ của Thánh thượng”, ai muốn tranh luận với đám binh lính này thì chính là một bên nói không rõ, một bên nghe không hiểu.
Ba vị thầy dạy của Thái tử tức giận giậm chân, ầm ĩ bắt đám lính này đi tìm Mông Chí đến, kết quả, bọn chúng chỉ đáp một câu: “Không có tư cách đến gặp đại thống lĩnh” và không di chuyển nửa bước, suýt làm ba ông lão tức giận đến hộc máu.
Tránh xa đám quan lại của Đông cung và những lão thần đó, Mông Chí thấy thoải mái hơn, đi về sắp lịch, cắt cử những binh lính mình tin tưởng nhất thay phiên đến gác cổng Đông cung.
May là Hoàng đế Đại Lương vừa về cung đã ốm, chỉ nằm yên tại cung Chỉ La, Mông Chí cũng bớt được không ít chuyện.
Đến sáng hôm sau, tin tức Thái tử bị giam lỏng dần lan truyền, người của các phe phái đến thăm dò tấp nập.
Đông cung không vào được, nội giám Cao Trạm quản nghiêm, cấm quân cũng không cạy được miệng, càng không có thông tin chân thực càng có đủ loại đoán già đoán non, ngay cả Dự vương cũng không thể giữ được bình tĩnh, hắn đích thân đến gặp Mông Chí định thăm dò tình hình.
Nhưng hắn đã đi một chuyến vô ích, đến thống lĩnh ti và phủ thống lĩnh đều không tìm thấy Mông Chí, vốn tưởng rằng ông ta đang làm nhiệm vụ trong nội uyển nhưng vào tìm kiếm cũng vẫn không thấy, có thể nói là người này đã biến mất vô tung vô ảnh.
Không biết nguyên nhân chính xác sẽ không thể đưa ra đối sách tương ứng, hơn nữa Hoàng đế Đại Lương lại bị ốm không lên triều, nằm trong hậu cung, chỉ cho phép Tĩnh phi hầu hạ, ngay cả Hoàng hậu và Việt quý phi cũng không gặp. Không ai thăm dò được thái độ thực sự của ông ta, bất kể là kẻ định cầu xin hay định thêm dầu vào lửa đều không dám làm bừa, đủ loại tin đồn bay đi khắp nơi, trong ngoài triều đều hỗn loạn.
Đương nhiên, thân là một trong những người đích thân chứng kiến sự việc, mặc dù không ai biết Mông Chí ẩn thân nơi nào, nhưng chắc chắn là ông ta không thực sự biến mất. Vị đệ nhất cao thủ Đại Lương lúc này đang đứng trong tẩm phòng của Tĩnh vương, ra dấu để vị chủ nhân đang kinh ngạc bình tĩnh lại.
“Điện hạ yên tâm, không có bất kỳ ai phát hiện ta đến đây.” Mông Chí nói nhỏ. “Ta cho rằng nên nhanh chóng đến bẩm báo chuyện xảy ra ở Đông cung với điện hạ.”
Tĩnh vương vốn là người chín chắn, gần đây lại chăm chỉ rèn luyện nên chỉ thoáng kinh ngạc rồi nhanh chóng bình tĩnh lại.
Sau khi phân phó tâm phúc canh gác ngoài cửa không cho bất cứ ai vào, hắn kéo Mông Chí vào phòng trong, vừa mở cửa mật đạo vừa nói: “Gặp Tô tiên sinh rồi nói sau, để ngài khỏi phải nói hai lần.”
Mông Chí gật đầu, đi theo Tĩnh vương vào mật đạo, rẽ ngang rẽ dọc đi tới gian mật thất đã từng đến mấy lần trước.
Tĩnh vương kéo dây chuông trong mật thất để thông báo với Mai Trường Tô là mình đã đến, nhưng sau khi đợi lâu gấp đôi thời gian bình thường vẫn không thấy bóng dáng vị mưu sĩ này xuất hiện, hai người trong mật thất đều có chút bất an, nhưng lại không thể đi thẳng sang bên kia xem thế nào.
Lại đợi thêm thời gian cháy hết một nén nhang nữa, mật đạo đi về phía Tô trạch cuối cùng cũng có động tĩnh. Có điều dù là Tĩnh vương võ công kém hơn Mông Chí cũng có thể khẳng định người bay tới gần như không gây tiếng động kia nhất định không phải Mai Trường Tô.
Quả nhiên một lát sau, gương mặt trẻ trung, tuấn tú của Phi Lưu đã xuất hiện ở lối vào mật thất, giọng nói lạnh như băng: “Chờ!”
Mông Chí thoáng nhìn Tĩnh vương, thấy hắn không có vẻ tức giận liền tiến lên trước một bước, hỏi: “Phi Lưu, Tô ca ca bảo ngươi vào à?”
“Ờ!”
“Tô ca ca đâu?”
“Bên ngoài!”
“Trong tẩm phòng bên ngoài?”
“Ngoài nữa!”
“Trong phòng khách à?”
“Ờ!”
Mông Chí đã đoán được tình hình. “Có người đến tìm Tô ca ca nói chuyện à?”
“Ờ!”
“Người nào?”
“Rắn độc!”
Mông Chí giật nảy. “Ngươi nói là ai?”
“Rắn độc!” Phi Lưu rất không thích trả lời lại cùng một câu hỏi, sốt ruột trừng mắt nhìn Mông Chí.
Mông Chí suy nghĩ một lát, lại thăm dò: “Là Dự vương à?”
“Ờ!”
Nghe đến đây, Tĩnh vương và Mông Chí đều đã hiểu rõ mọi chuyện, yên lòng ngồi xuống đợi.
Phi Lưu vẫn đứng ngoài cửa, nghiêm túc nhìn hai người, không có ý quay về.
Tĩnh vương đột nhiên nghĩ đến một chuyện, vẫy vẫy hắn rồi hỏi: “Phi Lưu, vì sao ngươi gọi Dự vương là rắn độc?”
“Tô ca ca!”
Tĩnh vương đã nhiều lần nhìn thấy Mai Trường Tô và Phi Lưu nói chuyện với nhau nên cũng hiểu sơ sơ về lối tư duy của thiếu niên này, liền phỏng đoán: “Là Tô ca ca nói với ngươi hắn là rắn độc à?”
“Ờ!”
“Ngươi có biết vì sao Tô ca ca gọi hắn là rắn độc không?”
“Biết!”
“Ngươi biết?” Tĩnh vương hơi bất ngờ. “Vì sao?”
“Đáng ghét!”
“Ai… ai đáng ghét? Dự vương à?”
“Tô ca ca!”
Tĩnh vương và Mông Chí thoáng nhìn nhau, hai người đều không hiểu lắm, suy tư hồi lâu mới nghĩ ra cách giải quyết tương đối hợp lý. “Phi Lưu, ý ngươi là không phải Tô ca ca là người rất đáng ghét mà là Tô ca ca thấy Dự vương rất đáng ghét đúng không?”
“Ờ!”
Tĩnh vương đảo mắt, đột nhiên động lòng tò mò, lại hỏi: “Dự vương là rắn độc, vậy ta là cái gì?”
Phi Lưu nghiêng đầu, yên lặng nhìn hắn một hồi rồi chậm rãi nói: “Trâu.”
Mông Chí suýt nữa bị sặc. “Trâu? Vì sao ngươi cho rằng Tĩnh vương điện hạ là trâu?”
“Không biết!”
“Không biết?” Lần này Mông Chí thật sự không hiểu nổi. “Ngươi chọn bừa cái biệt danh này để gọi Tĩnh vương điện hạ à?”
“Ta nghĩ… ý Phi Lưu nói hắn không biết vì sao Tô ca ca của hắn gọi ta là trâu.” Trên mặt Tĩnh vương không hề có ý cười, nhưng vẫn bình tĩnh.
Mông Chí giật mình, vội biện hộ cho Mai Trường Tô: “Không thể như vậy được. Tô tiên sinh là người thận trọng, làm sao lại đặt biệt hiệu cho điện hạ? Đó không phải phong cách làm việc của hắn.”
Tĩnh vương bình thản nói: “Có lẽ vị Tô tiên sinh này còn có một khuôn mặt khác mà chúng ta không biết. Hơn nữa hắn cũng không phải người đầu tiên gọi ta là trâu, trước kia đại hoàng huynh… và cả Tiểu Thù đều gọi ta như vậy. Bọn họ thường nói ta không thích uống trà mà thích uống nước trắng, tính khí bướng bỉnh như trâu, nhìn thế nào cũng thấy giống một con trâu…”
Lần này Mông Chí hoảng sợ thật sự, quên cả thở, cơ mặt cứng đờ, dường như không biết nên bày ra vẻ mặt thế nào cho phải.
Lúc này Mai Trường Tô đã đi đến, ánh mắt của Tĩnh vương chuyển qua nhìn gã mưu sĩ của mình.
“Xin thứ lỗi vì đã đến muộn! Dự vương vừa tới bàn bạc vài chuyện, ta mới tiễn hắn về.” Mai Trường Tô đang giải thích chợt thấy vẻ mặt khác thường của Tĩnh vương và Mông Chí, lập tức phát hiện bầu không khí trong mật thất có gì đó khác lạ. “Sao vậy? Hai người vừa nói gì à?”
“Cũng không có gì.” Tĩnh vương nhìn chằm chằm vào mắt chàng, giọng nói lại rất thờ ơ. “Bọn ta vừa nói chuyện… trâu…”
Lúc Tĩnh vương nói ra câu này, người căng thẳng nhất là Mông Chí, người thoải mái nhất là Phi Lưu, Mai Trường Tô đứng giữa hai người này lại không có biểu hiện gì hoang mang nhưng chắc chắn cũng không thoải mái. Chàng chỉ hơi nheo mắt, sau đó hình như suy nghĩ xem Tĩnh vương nói vậy là có ý gì, sao đó hình như hiểu ra nên mới lộ vẻ bất ngờ, áy náy và sợ hãi, chậm rãi quay người sang Phi Lưu, nói với giọng có vẻ trách cứ: “Phi Lưu… ngươi nói lung tung à?”
“Không!” Không rõ vì sao mình bị trách cứ, thiếu niên trợn tròn mắt, khẽ há miệng, dáng vẻ cực kỳ tủi thân.
“Phi Lưu, không phải ta đã nói với ngươi đó là Nghê Hoàng tỷ tỷ nói đùa, không thể học theo hay sao?”
“Chính ca ca!”
Mai Trường Tô dường như bị thiếu niên cãi lại làm nghẹn họng một lát rồi mới nói tiếp được: “Ừ, thì chính Tô ca ca cũng bắt chước mấy lần, Tô ca ca cũng không đúng, sau này chúng ta cùng sửa, nghe thấy chưa?”
“A.” Phi Lưu quay sang thoáng nhìn Tĩnh vương. “Sửa!”
“Xin điện hạ thứ tội!” Lúc này Mai Trường Tô mới khom người thi lễ với Tĩnh vương. “Sau Tết quận chúa Nghê Hoàng từng đến nhà làm khách, trong lúc nói chuyện phiếm, quận chúa có nói đến một số chuyện trước kia, ta nghe cảm thấy thú vị, cho nên biết rõ gọi điện hạ như thế là thất lễ nhưng trong lúc không có ai vẫn không nhịn được dùng vài lần, ai ngờ lại bị thằng bé Phi Lưu này bắt chước. Đây là ta đường đột mạo muội, xin điện hạ thứ tội!”
“Thì ra là nghe Nghê Hoàng nói.” Vẻ mặt Tĩnh vương không có gì thay đổi, nhưng trong đôi mắt lại thoáng lộ vẻ thất vọng. “Ta còn tưởng rằng…”
Hắn nói được một nửa lại cố ý dừng lại, nhưng Mai Trường Tô vẫn chỉ đứng yên, không hỏi tiếp, chỉ có Mông Chí không nhịn được hỏi một câu: “Điện hạ tưởng sao?”
“Ta còn tưởng rằng trước kia Tô tiên sinh có quen người nào đó…” Ánh mắt Tĩnh vương hơi mơ màng, sau đó đột nhiên tập trung lại, chuyển thành trấn tĩnh, khẽ mỉm cười, nói: “Không ngờ quận chúa Nghê Hoàng lại coi trọng Tô tiên sinh như vậy, ngay cả chuyện quá khứ cũng sẵn lòng kể cho tiên sinh nghe.”
“Chẳng lẽ điện hạ không cảm thấy ta là một người rất biết lắng nghe sao?” Mai Trường Tô cười thản nhiên. “Ta cũng rất kính trọng quận chúa Nghê Hoàng, cho nên nhiều chuyện đều không giấu quận chúa. Mặc dù bây giờ nàng còn không biết ta phục vụ dưới trướng điện hạ nhưng lại biết trước kia ta rất ngưỡng mộ Kỳ vương, từng có lòng phục vụ Kỳ vương, giờ đây làm mưu sĩ cho Dự vương chẳng qua là bị thời thế ép buộc mà thôi. Biết được chuyện này, quận chúa cũng bớt cảnh giác với ta, kể một số chuyện cũ không cơ mật và không quan trọng cũng chỉ là một cách biểu đạt tình cảm của mình mà thôi. Hơn nữa quận chúa thật sự cũng không có bạn tri kỷ, nàng và điện hạ cùng nắm binh quyền, quan hệ lại sâu xa, để tránh nghi ngờ nên không thể qua lại mật thiết. Quận chúa và Hạ Đông còn có khúc mắc trước kia, bao nhiêu lời cũng chỉ có thể giữ trong lòng không nói ra. Mục Thanh thì còn ít tuổi, trải qua những ngày tháng đó, cũng không hiểu những sự kiện đó… Mặc dù ta không thể coi như bạn tri kỷ của quận chúa nhưng dù sao cũng đã có tuổi, cũng đã từng trải nên ít nhiều còn có thể đồng cảm được với quận chúa. Ta nghĩ có lẽ đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến quận chúa coi trọng ta.”
Tĩnh vương nhìn chàng một cái, gật đầu, vẻ mặt rất nghiêm túc. “Quận chúa Nghê Hoàng là nữ nhân hào kiệt, mắt nhìn người tinh tường hơn ta nhiều. Cũng chỉ gần đây qua lại với tiên sinh ta mới hiểu được tài cao và lòng độ lượng của tiên sinh, mới biết tiên sinh hoàn toàn không phải loại mưu sĩ trong tưởng tượng của ta trước kia.”
Lời khen ngợi này của hắn là xuất phát từ chân tâm, không hề khách sáo. Mai Trường Tô đương nhiên biết điều này nên cũng không khiêm tốn mà chỉ hơi hạ mình thi lễ.
Thấy quan hệ hai người hòa hợp, người vui vẻ nhất là Mông Chí đang đứng nhìn. Ông ta xoa xoa tay, cười ha ha, nói: “Quân thần như mây gió gặp nhau chính là thế này. Tĩnh vương điện hạ nhân hậu độ lượng công bằng chính trực, Tô tiên sinh tài hoa hiếm thấy, hai người liên thủ thì còn có chuyện gì không làm được?”
“Lòng tin của Mông đại thống lĩnh còn lớn hơn bọn ta.” Mai Trường Tô bám mép bàn chậm rãi ngồi xuống, cũng cười cười. “Nhưng dù có bao nhiêu hùng tâm tráng chí thì công việc vẫn phải làm từng bước chắc chắn. Bây giờ chúng ta đã hàn huyên lâu như vậy rồi, đại thống lĩnh có công chuyện gì cũng nên nói ra chứ?”
Được chàng nhắc nhở, Mông Chí lập tức nghiêm túc lại. “Bệ hạ giam lỏng Thái tử trong Đông cung, hai người đều biết rồi chứ?”
“Không được biết chi tiết.” Mai Trường Tô nhíu mày. “Rốt cuộc chuyện xảy ra như thế nào, từng cử chỉ, phản ứng của Bệ hạ khi đó thế nào, xin thống lĩnh nói rõ từ đầu.”
“Được.” Mông Chí tập trung nhớ lại một lát rồi chậm rãi kể từng chi tiết từ lúc phụng mệnh hộ tống Hoàng đế đến Đông cung. Dù ông ta không phải người giỏi ăn nói nhưng trí nhớ lại rất tốt, dùng từ đơn giản, chính xác, tình hình hôm đó được miêu tả rất rõ ràng.
Đợi ông ta nói xong, Mai Trường Tô trầm ngâm chốc lát rồi hỏi: “Bây giờ hầu hạ bên người Thái tử vẫn những người cũ của Đông cung à?”
“Đúng. Có điều ta sợ hắn quẫn bách làm liều, có hành động không thỏa đáng nên vẫn phái một người lanh lợi, đáng tin giám sát kĩ càng.” Mông Chí thở dài. “Vị Thái tử gia này xem như xong rồi, chỉ là không biết Bệ hạ rốt cuộc định thế nào?”
“Theo ta đoán tạm thời sẽ không phế, cho dù phế cũng không lập tức lập tân Thái tử.” Mai Trường Tô quay sang Tĩnh vương. “Điện hạ hiểu ta chứ?”
Tĩnh vương gật đầu. “Ta hiểu.”
Hắn hiểu, nhưng Mông Chí không hiểu. Tuy nhiên, vị đại thống lĩnh này không phải người hiếu kỳ, suy nghĩ một lát không ra cũng không vặn hỏi.
“Đông cung nằm trong hoàng thành, việc phòng vệ trong cung do cấm quân tiếp quản, nhưng bốn phía ngoài cung lại là chức trách của tuần phòng doanh. Điện hạ cũng phải sai người tăng cường tuần tra, bất kể cục diện triều đình có loạn đến mấy cũng không được hỗn loạn. Nếu để hỗn loạn thì có thể xảy ra chuyện bất ngờ, đến lúc đó trách nhiệm đều ở trên người hai vị, Dự vương sẽ rất vui được nhìn thấy cảnh này.”
Mông Chí lập tức đồng ý. “Trách nhiệm này quả thật rất nặng nề, vừa rồi không phải ta đã nói với hai vị sao, bây giờ ta còn không có cả chỉ dụ công khai, khi đó xin Bệ hạ nhưng lần nào chưa nói hết cũng bị ngắt lời, bây giờ đành phải dựa vào một câu khẩu dụ để cầm cự.”
“Nói đến chuyện này…” Mai Trường Tô quay sang nhìn ông ta. “Ngài nên chuẩn bị một phần lễ trọng đến cảm tạ vị Cao công công kia đi.”
“Hả? Vì sao?”
“Ông ta ngắt lời ngài là vì ý tốt, là ân tình. Ngài tạ ơn có nghĩa ngài hiểu ý tốt của ông ta, nợ ông ta một ân tình.” Mai Trường Tô mỉm cười với Mông Chí. “Chính là như vậy.”
Mông Chí trợn mắt nhìn chàng. “Tô tiên sinh, tiên sinh biết rõ trong đầu ta không có mấy thứ vòng vo này, không được trêu ta, rốt cuộc là chuyện gì cứ nói với ta rõ ràng đi!”
“Vậy ta hỏi ngài, lúc đầu Bệ hạ phát chỉ dụ, Bệ hạ có để ý đến ngài hay không?”
“Không…”
“Vì sao Bệ hạ không để ý tới ngài? Là vì Bệ hạ không nghe rõ hay vì Bệ hạ hồ đồ rồi?”
Mông Chí giật mình, không biết trả lời thế nào.
“Nếu hỏi trên đời này ai hiểu ý Bệ hạ nhất thì đáp án tuyệt đối không phải là Hoàng hậu hay quý phi, không phải Thái tử hay Dự vương, không phải những triều thần vẫn thường xuyên phỏng đoán thánh ý, mà là Cao Trạm. Ông ta sớm chiều hầu hạ bên cạnh Bệ hạ, mấy năm nay ân sủng và tín nhiệm không giảm, nếu không có phản ứng nhạy bén và khả năng phán đoán chính xác thì sẽ không làm được.” Mai Trường Tô chăm chú nhìn Mông Chí. “Trong chuyện ở điện Trường Tín hôm qua, ngài xin chỉ dụ nhưng Bệ hạ phớt lờ, điều này có nghĩa khi đó Bệ hạ đang do dự không biết nên làm thế nào, vừa không muốn xử lý ngay lập tức lại càng không muốn xử lý quá quyết đoán để sau này không thể cứu vãn nữa. Nếu thông qua Trung Thư lệnh để phát chỉ dụ giam lỏng Thái tử thì phải nói rõ lý do, bất kể lý do gì, một khi đã nghiêm trọng đến mức phải giam lỏng Thái tử thì nhất quyết không thể là tội danh nhỏ. Tình cảnh của Thái tử giờ đây đã không chịu nổi một chỉ dụ như vậy nữa, một khi đã phát ra thì không phế cũng chẳng khác gì đã phế. Cho nên đối với Bệ hạ khi đó, ngài thỉnh cầu Bệ hạ phát chỉ dụ cũng không khác gì thỉnh cầu Bệ hạ phát chiếu thư phế Thái tử…”
Mồ hôi lạnh toát trên lưng, Mông Chí vội nói: “Nhưng ý ta không phải như vậy! Ta chỉ…”
“Ngài chỉ muốn tiếp quản Đông cung thuận lợi, ta hiểu rõ điều này, Cao Trạm cũng hiểu rõ, ngay cả Bệ hạ cũng hiểu rõ, cho nên lúc đầu ngài thỉnh cầu thì Bệ hạ không tức giận mà chỉ làm ngơ. Nhưng nếu ngài cứ yêu cầu Bệ hạ phát chiếu chỉ hết lần này tới lần khác, với tâm tình của Bệ hạ khi đó, với tính tình đa nghi của Bệ hạ thường ngày thì e là sẽ không chỉ phớt lờ ngài đâu. Hơn nữa ngài cũng đừng quên, sau khi Dự vương đến cầu tình cho ngài trong vụ nội giám bị giết, trong cảm nhận của Bệ hạ ít nhiều ngài cũng bị nghi ngờ là đã ngả về phía Dự vương. Lúc này ngài ra sức thỉnh cầu phát chiếu chỉ đẩy Thái tử vào chỗ chết… hà hà…” Mai Trường Tô cười lạnh hai tiếng. “Bệ hạ của chúng ta rộng lượng lắm sao? Nhân từ lắm sao? Ông ta sẽ hoài nghi điều gì?”
Mông Chí hơi lui hai bước, ngồi phịch xuống ghế, hít sâu liền hai hơi vẫn không bình tĩnh được.
“Vị Cao công công kia biết rất rõ tâm tư muốn kéo dài thời gian của Bệ hạ, cho nên ông ta lặng lẽ ngắt lời ngài, đó thật sự là lòng tốt của ông ta, chẳng lẽ ngài không nên đáp lế tạ ơn người ta?”
“Nghe tiên sinh nói như vậy thì đúng là ta nên tạ ơn ông ta.” Mông Chí lau mồ hôi trên trán. “Nhưng vì sao Cao Trạm lại giúp ta? Thường ngày dù bọn ta không có xích mích gì nhưng cũng không có giao hảo đặc biệt.”
“Ông ta ở bên cạnh thiên tử, gần vua như gần cọp, lại ở chỗ âm hiểm quỷ quyệt như hậu cung, Cao Trạm tuyệt đối là một người thông minh, sáng suốt. Một lòng trung quân, không cuốn vào cuộc tranh sủng trong nội cung, không chen chân vào chuyện thị phi trên triều đình, không nảy ý xấu hại người, có cơ hội thì lặng lẽ bán chút hảo ý, tặng chút ân tình cho người khác. Với cách sống như vậy, bất kể tương lai người nào được sủng ái, người nào kế ngôi, ông ta vẫn có thể an ổn chết già. Ngược lại, những người lắm tính toán, hết đầu nhập vào người này lại ủng lập người kia thì vẫn ngã xuống cả loạt. Triều đình như thế, hậu cung chẳng lẽ không phải như thế?”
“Tô tiên sinh, Cao Trạm ở bên cạnh Bệ hạ, quan trọng như thế, lại là người thông tuệ, vì sao tiên sinh không giúp Tĩnh vương điện hạ nghĩ cách thu phục ông ta?”
“Không được.” Mai Trường Tô lắc đầu. “Thứ nhất là cách làm bo bo giữ mình nhiều năm của Cao Trạm sẽ không dao động khi bị chúng ta lôi kéo. Thứ hai là ông ta cách Bệ hạ quá gần, muốn thu phục ông ta thì không tránh khỏi sẽ để lộ một số điểm yếu bị ông ta nắm được, một khi khống chế không tốt sẽ thành ra khéo quá hóa vụng. Tĩnh vương điện hạ tranh quyền kế vị phải đi chính đạo, phải tăng cường sức mạnh, tranh thủ ngày càng nhiều sự ủng hộ quang minh chính đại. Cao Trạm dù quan trọng nhưng cũng không phải người không thể thiếu, cần gì phải tham lam như thế? Hơn nữa với cách đối nhân xử thế của vị Cao công công này thì cho dù không thu phục cũng sẽ không có gì trở ngại đối với chúng ta. Tương lai khi nào điện hạ đủ mạnh thì ông ta không là người của chúng ta cũng sẽ phải làm người của chúng ta.”
Mông Chí hơi ngượng ngùng, nhún vai, nói: “Thôi, ta thật sự quá ngốc, không nói leo nữa, khỏi ảnh hưởng đến hai vị bàn chính sự. Những lời này tiên sinh không nói thì ta còn không để ý, nghe tiên sinh nói thì quả đúng là như vậy!”
Tĩnh vương vẫn yên tĩnh lắng nghe lúc này không khỏi cười, nói: “Ngài hỏi nhiều cũng tốt, Tô tiên sinh có lúc không đủ kiên nhẫn để giải thích. Ngài hỏi như vậy ta cũng hiểu ra thêm nhiều điều.”
“Đâu phải ta không đủ kiên nhẫn để giải thích? Sự thật là gần đây điện hạ tiến bộ rất nhiều, ta vừa mới nói điện hạ đã hiểu rõ rồi. Điện hạ hiểu rõ rồi thì ta còn dài dòng nữa làm gì?”
Tĩnh vương chậm rãi thu lại nụ cười trên mặt, nghiêm túc nói: “Quả thật nguyên nhân thứ ba khiến tiên sinh không khuyên ta thu phục Cao Trạm thì ta cũng hiểu được. Đa tạ tiên sinh!”
Nghe hắn nói ra câu này, Mai Trường Tô thật sự ngạc nhiên và bất ngờ, trong lồng ngực chợt thấy ấm áp. Chàng cười cười quay đầu đi, không nói lời nào.
Thu phục Cao Trạm dĩ nhiên có nhiều khó khăn nhưng lợi ích nếu thu phục được cũng vô cùng lớn. Nguyên nhân chủ yếu làm Mai Trường Tô quyết định không ép Tĩnh vương nhằm vào Cao Trạm quả thật là nguyên nhân thứ ba mà chàng còn chưa nói ra.
Đó chính là không muốn để Tĩnh phi bị cuốn vào.
Dù sao Tĩnh vương cũng không thể vào hậu cung quá thường xuyên, vì vậy bất kể trong quá trình thu phục Cao Trạm hay sau khi đã thu phục đều quá khó tránh khỏi phải thông qua Tĩnh phi để thực hiện một số sắp đặt.
Tĩnh phi thông minh, nhanh nhạy, tỉnh táo, không phải là không có năng lực này, nhưng bà là người điềm đạm, không màng danh lợi, lợi dụng bà để làm những chuyện âm mưu quỷ kế không phải là mong muốn của Tĩnh vương.
Chính vì nghĩ đến điều này nên Mai Trường Tô chưa bao giờ yêu cầu Tĩnh vương phối hợp với chàng để dấy nên sóng gió trong hậu cung.
Tuy nhiên điều khiến chàng bất ngờ là dù Tĩnh vương không nói một câu nhưng trong lòng lại hiểu rõ ý tốt của chàng.
“Vậy tiếp theo chúng ta nên làm thế nào?” Mông Chí nghe không hiểu những lời hàm hồ của hai người này nhưng cũng không muốn hỏi. Bây giờ điều ông ta quan tâm nhất là mình ngàn vạn lần không được làm sai chuyện gì nữa.
“Bốn chữ: Chờ xem diễn biến.” Mai Trường Tô quyết đoán nói. “Có câu có tật giật mình, nếu hai vị không bị cuốn vào cuộc đấu này thì sẽ làm gì khi gặp phải cục diện? Bây giờ các vị cứ làm như thế là được. Đại thống lĩnh phòng vệ Đông cung nghiêm cẩn, chấp hành tốt thánh ý. Tĩnh vương điện hạ chăm chỉ làm việc được giao, vẫn thờ ơ với Thái tử và Dự vương như trước kia. Lúc như thế này, người nào gây rối thì người ấy sẽ gặp xui xẻo. Vừa rồi ta nói với Dự vương là “cần làm việc âm thầm và thận trọng”, nhưng kỳ thực cách làm chính xác nhất là đừng làm chuyện gì. Lúc này Bệ hạ cần yên tĩnh. Ai yên tĩnh được thì Bệ hạ sẽ nghiêng về người đó. Tình hình trong cung chẳng phải cũng như vậy sao?”