Trần Đoan bạn với hai người,
Ở nơi hoa viện đã mươi ngày rồi. (3000)
Thưa cùng quan Trấn kíp hồi,
Tần công bèn dụng lễ bồi đưa ra.
Ban cho năm vóc vân sa,
Sâm nhung thanh quế để già dưỡng thân.
Lại cho vàng bạc hai cân.
Của đưa chàng rể sắm phần ra đi.
Nười ngày về tới châu Khê,
Người làng đón rước bộn bề lễ nghi.
Tiếng hay đâu cũng yêu vì,
Hai thầy cử nhỏ đậu thi trở về. (3010)
Ai dè chăn ngỗng chăn dê,
Vận trời ngó lại ra bề người sang.
Bà con họ nội xa đàng,
Võng dù xin rước về làng thuở xưa.
Đỗ nương Đỗ Khoái đãi đưa,
Tiệc bồi năm bữa mới vừa rảnh rang.
Dương Trân Dương Bửu hai chàng,
Thưa cùng cậu mẹ hiệp bàn việc hôn.
Nàng rằng: Nhờ của công môn,
Ban cho vật quí mình khôn chối từ. (3020)
Chưa hay hai gái hoa tươi,
Đứng trong đào liễu đua cười mấy xuân?
Hai chàng đem việc họ Tần?
Đờn nơi hoa viện đều phân tỏ tường.
Nàng rằng: Nhờ phước tổ đường,
Cho con gặp thuở khoa trường nên danh.
Nhờ trời phước đặng chữ vinh,
Sau rồi sẽ liệu gia đình mới xong.
Hai con vào chốn thơ phòng,
Ôn nhuần kinh sử lo vòng thi xuân. (3030)
Lần hồi ngày tháng tới gần,
Đem nhau cất gánh trông chừng Tràng An.
Hai chàng đi tới Tấn bang,
Vào trường thi hội bảng vàng đỗ cao.
Trước đền đặng đứng đầu ngao,
Dương Trân Bảng nhãn Bửu vào Thám hoa.
Tuy không dàng Trạng nnguyên khoa,
Cung thiềm tháp nhạn cũng là á khôi.
Hốt hoa bào gấm ban rồi,
Quỳnh Lâm mở tiệc chúa tôi phỉ lòng. (3040)
Tờ truyền tới trấn Hà Đông,
Tần Khanh văn tín vợ chồng đều vui.
Truyền quân lập tức trống hồi,
Tới Nam Khương huyện dọn ngôi công đàng.
Cứ theo Trà Thạch các làng,
Cất làm nhà cửa nghiêm trang một tòa.
Giấy nêu rường cột nguy nga,
Nam Khương một huyện ít nhà dám đang.
Dọn rồi án kỷ rỡ ràng,
Xảy vừa tới lúc hai chàng vinh qui. (3050)
Bảng vàng tán đỏ đều đi,
Ngựa xe võng giá oai nghi chói lòa.
Lại thêm áo mão giồi ra,
Lịnh ban gấm nhiễu ngọc ngà thiếu chi.
Khắp nơi châu huyện đều vì,
Thổi kèn gióng trống ra đi rước mừng.
Cho hay đỏ tía sắc xuân,
Để dành trong sách giồi thân học trò.
Thật nhờ họ Đỗ ơn to,
Lúc nầy mới đặng trời cho sang giàu. (3060)
Châu Khê đùm đậu bấy lâu,
Đền ơn nhờ cậu trước sau phỉ tình.
Hạc lầu là chỗ dương danh,
Anh em trả nghĩa sư sanh cũng tròn.
Nay đà đẹp mặt mẹ con,
Ở nơi Trà Thạch ăn ngon mặc lành.
Nhờ vua hai chữ hiển vinh,
Một môn dòng họ linh đình tới lui.
Anh em Trân Bửu chẳng vui,
Nhớ cha đi mất ngùi ngùi thở than. (3070)
Dọn ra trước chốn công đàng,
Đặt làm hương án một bàn vọng lên.
Họ tên bài vị rõ biên,
Ăn chay nằm đất chúc nguyền vong linh.
Theo nho dùng lễ tam sinh,
Đọc bài văn tế phỉ tình cha con.
Văn tế rằng
Hỡi ôi!
1- Trăng xế bóng xuân;
Mây giăng lầu Hạc.
2- Thấy chữ “mặc liên” thơ cũ, chi xiết não nùng;
Nghĩ câu “phong mộc” người xưa, càng thêm bát ngát.
Nhớ linh xưa:
3- Kinh sử đều thông;
Vận thời chẳng đạt.
4- Công danh hai chữ, mơ màng bên gối hoàng lương;
Sự nghiệp một câu, lấp lửng trong gương bạch phát.
5- Khắp chùa miễu cây hương cầu nòi giống, nghĩa cha con, nghĩa đã đặng tròn;
Trùm non sông lời nói để ghi lòng, tình chồng vợ tình đâu ở bạc!
6- Thừa ưa cắp một gậy thiền;
Bỗng chốc bẻ hai gương nhạc.
7- Xiết bao đường sá xa xôi;
Thêm nỗi cửa nhà man mác!
8- Đau đớn thay! Một cụm tàn huyên;
Ủ ê bấy! Hai cành hoa ngạc.
9- Ngoài bảy chục xuân thu, còn thêm nữa vó câu qua cửa, khôn rõ xa gần;
Trong ba ngàn thế giới, biết bao nhiêu dấu thỏ lên đèo, khó lường nơi sống thác.
10- Tu gặp chùa nghèo;
Chơi lầm cảnh khác.
11- Sớm hôm chuông mõ, xưa am mây đã trót nhọc nhằn;
Ngày tháng tương dưa, nay rừng bụi ai cùng mặn lạt?
12- Làng Trà Thạch đá buông lời nói khống, biết đâu tìm dấu Như Lai;
Đất châu Khê, hoa chảy nước mắt dầm, khó nỗi hỏi tin Bồ Tát.
13- Phải gặp thuở qua miền Đông Độ, rước cha trở lại, trong nhà cũng có Thích Già;
Nào biết ai tới cõi Tây phương, xin cha lộn về, ở nước há không Di Lặc?
14- Hộ là cậy, mất cha nào cậy, muốn hỏi han mà cửa Phật vắng hiu;
Ai là thương, thấy mẹ thêm thương, luống trông nhớ, mà tuổi trời nặng vác.
Hỡi ôi!
15- Sang giàu một giấc, mây nổi hoa tàn;
Sự nghiệp trăm năm, nước xao bèo dạt!
16- Đã biết cha nghề nào, con nghề nấy mới phải nhân tình;
Há ngờ cha đường nọ, con đường nầy cũng vì thiên các …
17- Vái Phật mở câu giới cấm, hưởng cô nhi mấy tiệc cỗ bàn;
Nhờ vua đặng chữ vinh qui, xin hiển khảo dùng thoi vàng bạc.
Đọc rồi văn tế linh cha,
Một môn già trẻ đều hòa khóc than.
Vô ra dù võng nhộn nhàng,
Đãi đằng trên dưới cỗ bàn no say. (3080)
Tiệc mừng vừa đủ mười ngày,
Tần Khanh sai kẻ lễ bày đính duyên.
Mừng cho hai rể đặng tiên,
Ngàn năm tiếng rạng danh biên thẻ ngà.
Hai chàng bảng nhãn thám hoa,
Khiến người lên tạ nhạc gia ơn rồi.
Lương duyên hai chữ thêm giồi,
Trần Đoan vừa tới lo bồi nghinh hôn.
Đỗ nương vâng lịnh công môn,
Chờ ngày giờ tốt nghinh hôn đem về. (3090)
Sửa sang sáu lễ nên xuê,
Họ hàng mới nhóm toan bề phụng chiêm.
Hay đâu trăng tỏ mây êm,
Hằng Nga núp bóng cung Thiềm bạc sao!
Hỏi đôi chén ngọc chờ trao,
Dương Trân nhuốm bịnh liền đau thương hàn.
Trong nhà lo việc thuốc thang,
Rước thầy hay trị ngày càng ốm hư.
Tần Khanh có dạ ưu tư,
Ra tờ khắp chốn cầu sư tới liền. (3100)