Thứ nầy tới chuyện Tấn vương,
Sửa sang nhà nước bốn phương vững vàng.
Buổi chầu đông mặt bá quan,
Hai bên văn võ đều bàn việc dân. (2270)
Có quan Bảo Giá họ Tần,
Quì dâng lời sớ ở phần Dự châu.
Tấn vương xem thấy lòng sầu,
Mới hay một trấn Dự châu mất mùa.
Phán rằng: Nghiêu Thuấn làm vua,
Chín năm nước lụt mà mùa chẳng hư;
Vì lòng lo sợ có dư,
Phải toan chữ đức đặng trừ chữ tai.
Ngày nay châu Dự cõi ngoài,
Muôn dân đói khó nào ai đỡ đần! (2280)
Tần Khanh trước bệ liền tâu:
Xin đi kinh lược Dự châu một lần.
Trước là chẩn thải muôn dân,
Sau răn quan lại khỏi phần gian tham.
Tấn vương y tấu cho làm,
Phê rằng: “Thay trẫm đông nam tuần hành”.
Tần Khanh phụng chỉ triều đình
Thối triều sắm sửa giàn binh mã rồi.
Về dinh tạm nghỉ một hồi,
Phu nhân liền đặt lễ bồi xin đưa. (2290)
Thưa rằng: Cám đỗi dây dưa,
Đoái câu “lân chỉ” nhà chưa phỉ nguyền.
Nay ông vâng lịnh tuần biên,
Ra ơn làm phước cầu duyên phận mình.
Hoặc là trời chút thương tình,
Sớm cho đặng chữ minh linh nối dòng.
Miễn là nối nghiệp cho ông,
Tôi phần liễu yếu dám trông lẽ gì!
Tần Khanh từ giã ra đi,
Rần rần xe ngựa một khi đăng trình. (2300)
Ngưỡng chiêm kỳ cổ nghiêm minh:
Trải qua các trấn sanh linh đều mừng.
Đua nhau rượu thịt đem dâng,
Đốt hương đội trạng tưng bừng xã thôn.
Mười ngày tới huyện Long Môn,
Xảy vừa gặp lúc hoàng hôn bóng vầy.
Huyện đường xin rước vào đây,
Truyền quân tạm nghỉ rạng ngày sẽ đi.
Đêm đông tiếng trống trì trì,
Bóng trăng thấp thoáng trúc ly lối vào. (2310)
Tần Khanh nằm thấy chiêm bao,
Hai con thỏ bạch nhảy vào trong tay.
Giựt mình bèn thức dậy ngay,
Ngồi bàn chưa rõ điềm nầy cát hung.
Phút đâu trời đã hừng đông,
Đòi quan Tri huyện hỏi trong dân tình.
Chỗ nào oan khúc cho minh,
Chỗ nào non nước anh linh cho tường.
Huyện quan bày vẽ mọi đường,
Rằng: Non Tùng có nhiều phương thú cầm. (2320)
Nghĩ trong điềm ấy nghi thầm,
Truyền ra một lịnh sơn lâm liệp điền.
Huyện quan sắm việc săn liền,
Đem đi lên chốn sơn xuyên giải buồn.
Truyền quân vác lưới chiêu muông,
Nhắm chừng Tùng lãnh đi ruồng vào săn.
Non xanh cây mọc giăng giăng,
Hươu nai dấu đá lấy ngăn chật đàng.
Trải qua vừa tới Thạch Bàn,
Hai con thỏ bạch bên đàng nhảy đi. (2330)
Tần Khanh xem thấy lòng nghi,
Truyền quân bôn dấu lưới vây tư bề.
Tìm theo tới chốn Hoàng khê,
Thấy hai gái trẻ nằm kề ngủ trưa.
Quân hầu chưa kịp lời thưa,
Tần Khanh bước tới thấy vừa lòng thương.
Nói rằng: Điềm mộng mơ màng,
Thật trời cho lão gặp đàng minh linh.
Giã ơn non nước thần linh,
Đi săn không thú đã đành gặp con. (2340)
Bèn kêu thức dậy hỏi đon,
Việc chi dám tới núi non chốn nầy?
Tuyết Băng thức dậy mới hay,
Cúi đầu bèn lạy tỏ bày đầu đuôi.
Thưa rằng: Lỡ bước tới lui,
Đói lòng nhờ có chim nuôi ba ngày.
Tần Khanh nghe rất mừng thay,
Con ai khéo đẻ mặt mày tốt tươi.
Lịnh truyền bãi việc săn chơi,
Đem hai gái ấy về nơi huyện đường. (2350)
Tần Khanh ngồi giữa huyện đường,
Đòi ra han hỏi họ đương việc nhà.
Hỏi rằng: Hai trẻ tìm cha,
Rằng ai vẽ ngõ chỉ nhà cho đi?
Mới thưa rằng: Có danh y,
Bạn cùng thân phụ, Châu Kỳ là tên.
Tần Khanh đòi họ Châu liền,
Cùng là cô bác ở bên họ Hà.
Tần Khanh hỏi việc họ Hà,
Châu Kỳ gốc ngọn thưa qua rõ ràng. (2360)
Tần Khanh mới rõ lòng vàng,
Khen rằng: Bỏ đạo Hòa Lan phải rồi.
Cho hay gà hạc khác ngôi,
Cây hiền trái báu biết mùi mấy ai?
Bà con nội ngoại vừa hai,
Chớ rằng ai dại trách tay các người!
Tuyết Băng là gái thờ trời,
Ta xin nuôi lấy cải đời theo ta.
Châu Kỳ quì lạy trở ra,
Họ hàng nghe nói trẻ già đều ưng. (2370)
Tuyết Băng thay áo đổi quần,
Phận làm dưỡng tử lễ dâng lạy rồi.
Tần Khanh sai kẻ tống hồi,
Phu nhân mừng đặng con nuôi trong nhà.
Ấp yêu như ngọc như ngà,
Dạy bề đức hạnh nết na thêm nhuần.
Xuê xang cốt cách mười phần,
Họ Hà cải lại họ Tần rất vinh.
Tuyết Băng nay đã yên mình,
Ở nơi công phủ theo tình phu nhân. (2380)
Tần Khanh xe ngựa rần rần,
Từ nơi huyện ấy trông chừng Dự châu.
Các quan lại tới bữa hầu,
Tờ chương tờ biểu bày tâu nhộn nhàng.
Tần Khanh khiến mở cho tường,
Đặng cho lúa gạo cứu hoang muôn nhà.
Nhờ ơn chẩn thải chư gia,
Một châu trăm họ trẻ già đều vui.
Sửa sang sáu tháng yên rồi,
Giã từ châu Dự phản hồi Tấn kinh. (2390)
Tần Khanh bái yết triều đình,
Tấn vương phán hỏi dân tình khắp nơi.
Phán rằng: Ta nói ngôi trời,
Gẫm mình ít đức trị đời chẳng an.
Dự châu trời xuống tai nàn,
Cứu dân một cõi nhờ chàng Tần Khanh.
Công cao quyền trọng đã đành,
Chức quan Tổng trấn sẵn dành phong ngươi.
Hà Đông là cõi tốt tươi,
Bảy châu chín quận nhiều người ăn chơi. (2400)
Nấy ngươi thay mặt đổi lời,
Ra ngồi trấn ấy trị đời chăn dân.
Tấn vương lòng rất ân cần,
Yến diên thết đãi quân thần đưa nhau.
Tần Khanh xuống bệ khấu đầu,
Tạ vua lãnh chỉ thối chầu sửa sang.
Về dinh sắm sửa hành trang,
Đều đem nha lệ lên đàng Hà Đông.
Mười ngày tới huyện Hà Đông,
Các quan xa giá hội đồng tiếp nghinh. (2410)
Rước ông Tổng trấn vào thành,
Muôn dân nượp nượp đều tranh tới mừng.
Long Môn huyện ấy ở gần,
Nam Khang huyện ấy kề phần Hà Đông.
Tần Khanh trấn thủ ải đồng,
Chánh ra bủa khắp ngoài trong vũng vàng.
Mấy câu gia huấn rõ ràng,
Nuôi con gái ngọc dung nhan khác thường.
Phu nhân lòng rất yêu đương,
Lại cho học chữ cho tường xưa nay. (2420)
Tuyết Băng hai gái xinh thay!
Đã thông kinh sử liền ngày ngâm nga.
Tiếng thơm ngày một đồn xa,
Chúng đều khen ngợi họ Hà phước to.
Tuy là hoa có thơm tho,
Vườn xuân còn đóng chưa lò gió đông.