Vasmus (1883 – ?) Điệp Viên Ngoại Giao Ở Xứ Ba Tư

Vasmus sinh năm 1883. Không ai biết gì về xuất xứ cũng như những năm tháng thanh niên của ông. Chỉ biết rằng năm 1914 ông giữ một chức vụ không cao lắm, nhưng cũng có uy tín là lãnh sự ở Bushir. Ông là nhà Đông phương học, ông biết tiếng Farsi cổ điển giỏi như tiếng mẹ đẻ, lại biết cả thổ ngữ của các bộ lạc nằm rải rác trên một vùng rộng lớn của Ba Tư. Về bản chất ông là nhà thực dân thời đại Victoria. Ông cho rằng thế giới này phải thuộc về những người da trắng, tốt nhất là thuộc về người Đức. Ông say mê phương Đông theo một cách riêng. Vilhem II, khi tuyên bố mình là người “bảo vệ Koran”, đã biết đến những thành tích của ông lãnh sự đầy nghị lực trong việc thiết lập những quan hệ tốt đẹp với “người bản xứ”. Theo chỉ thị riêng của ông, Vasmus được thăng cấp và được tăng tiền để tuyên truyền và lập đại diện.

Trước Đại chiến I Ba Tư là một nước lạc hậu, phần lớn dân cư mù chữ, họ còn tin rằng vũ trụ này bao gồm rất nhiều những khối đồng tâm mà trung tâm là Trái Đất. ảnh hưởng của các siêu cường Nga, Anh, Đức là đáng kể, những nước này thường coi mình là chủ nhân của nhiều vùng đất. Lúc đó đã có “cuộc chiến tranh dầu mỏ” không tuyên chiến giữa người Đức và người Anh. Theo một Hiệp định quốc tế thì để duy trì trật tự ở vùng có dầu, người ta đã thành lập một đội sen đầm trung lập, nòng cốt là các đạo quân Thuỵ Điển, nhưng Vasmus đã kịp nắm được những đạo quân này. Khi chiến tranh nổ ra, người Anh tuyên bố rằng sự việc này vi phạm thô bạo quyền trung lập của Ba Tư và dùng quân đội để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình.

Những nơi người Anh đến thì các nhà ngoại giao Đức phải rời bỏ ngay. Vasmus kiên quyết chống lại việc đó và bị người Anh bắt giam, bị coi như một “người ngoại quốc không có thiện cảm và thù địch” và bị quản thúc tại nhà, tài sản bị tịch thu và phải đưa cùng với ông về sở chỉ huy Anh. Đêm trước khi xảy ra sự kiện đó ông rất lo cho sức khoẻ con ngựa đua của ông. Cùng với hai người lính canh, ông xuống chuồng ngựa và phát hiện thấy con ngựa có chứng bệnh lạ của vùng bản xứ, đòi phải có sự quan tâm thường xuyên và uống thuốc luôn. Suốt đêm, cứ 10-20 phút ông lại được hai người lính hộ tống xuống thăm ngựa. Cuối cùng, một trong hai người lính bảo: “Nếu ông yêu nó đến thế thì ông đi một mình!”. Ông chỉ cần có thế. Lần cuối cùng xuống chuồng ngựa ông lấy trong đống cỏ khô một cái túi đã giấu sẵn từ trước trong đó có 140 ngàn đồng mark vàng, nhảy lên lưng con ngựa hoàn toàn khoẻ mạnh của mình trốn biệt.

Trong số các công tước địa phương ở vùng núi mà ông chạy đến hồi đó có những người bạn hùng mạnh, hiếu chiến và có một điều không kém phần quan trọng là họ được trả công rất hậu hĩ. Họ là những người có ảnh hưởng vượt ra ngoài lãnh địa của mình. Nhờ họ giúp đỡ Vasmus tiến hành một cuộc đấu tranh không cân sức chống lại đế chế Anh. Ông hoạt động như một nhân vật chủ yếu của cơ quan mật vụ Đức, người lãnh đạo hoạt động tình báo quân sự và chính trị trong khu vực vịnh Ba Tư. Nhưng ông coi đây không chỉ là việc thu thập thông tin cho tổng tư lệnh quân đội Đức vùng Viễn Đông, tướng Liman fon Sanders. Kế hoạch của ông rộng lớn hơn thế: ông muốn thu gom toàn bộ vùng Nam Ba Tư vào phạm vi ảnh hưởng của Đức, ngăn không cho người Anh lạm dụng dầu mỏ khu vực Ba Tư, thúc đẩy các bộ lạc vùng núi tích cực đấu tranh chống lại quân Anh.

Để củng cố thêm vị trí của mình, Vasmus đi một bước chưa từng có: ông lấy con gái của một thủ lĩnh Ba Tư có thanh thế. Ông coi sự kiện này không những chỉ là sự kết hợp hai trái tim yêu, mà còn là sự kết hợp “hai nòi giống vĩ đại”, biểu tượng của sự thống nhất Đức-Ba Tư. Theo tục lệ địa phương, chi phí cho đám cưới thuộc về bố cô dâu, nhưng Vasmus khăng khăng nhận lấy phần ấy (tức là thuộc về cơ quan mật vụ). Bố cô dâu và nhiều vị khách cả thượng lưu cũng như bình dân đều được tặng quà tương xứng với vị thế và “giá trị” của họ. Phụ tá trung thành của Vasmus, một người Đức tên là Brugman, trong khi đi phân phát quà, đã tuyển mộ luôn những người được tặng. Sau này tình báo Anh khẳng định rằng một nửa số khách ấy đã được tuyển dụng vào mạng lưới mật thám của Vasmus trải rộng giữa ấn Độ, Xuyê, các bờ sông Tigr, Efrat và vịnh Ba Tư.

Nhìn từ góc độ tình báo thì khoảng không gian mà Vasmus quản lý có địa hình rất thuận lợi. Cứ mỗi tháng hai lần tình báo Anh lại in ra một bản đồ có đánh dấu vị trí quân địch trên chiến trường phương Đông. Không phải ngẫu nhiên, trong vòng 4 năm một khu vực lớn của Ba Tư, rộng bằng cả Pháp và Anh cộng lại, được đánh dấu mầu đỏ với một chữ trong vòng tròn “Vasmus”.

Vasmus đã thuê nhiều tầu nhỏ kiểm tra mọi con đường giữa ấn Độ và châu Âu qua các biển Cận Đông. Bằng cách đó ông luôn luôn nắm được mọi việc vận chuyển quân đội và hàng hoá. Mạng lưới điệp viên của ông lan đến cả những đường thông tin của các đoàn quân viễn chinh của các nước đồng minh. Họ thu được thông tin ở Palestin, Dardanella, Mesopotami, thậm chí ở cả Đông Phi và Armeni thuộc Thổ.

Thành công to lớn, thậm chí có thể coi là chiến lược của ông, là giúp được cho tướng Kolmar Vilgelm Leopold fon der Golts chỉ huy đạo quân Thổ số 6 và các quân đoàn hợp nhất Đức-Thổ ở Mesopotami. Nhân viên của ông biết tất cả mọi mánh khoé của tướng Anh Charles Taunsgend, người mà trong cuộc tấn công Bagdad đã lãnh đạo một cánh quân đi dọc triền sông Tigr. Ông đã đánh tan các đạo quân Thổ ở Kut-el-Amara. Để phát huy thành tích, Taunsgend đột nhập vào Ktezifon. Nơi đây hai cánh quân của Thổ thuộc liên quân “Iraq” đang chờ đợi ông, đứng đầu là tướng Golts, nhờ Vasmus đã báo trước hướng tấn công của quân Anh. Trận chiến đấu ở Ktezifon ngày 23 tháng 11 năm 1915 bất phân thắng bại, nhưng Taunsgend phải rút về Kut-el-Amara, nơi quân Thổ đã bao vây sẵn. Mọi mưu đồ từ phía quân Nga lẫn phía quân Anh muốn giúp đỡ đoàn quân mắc hãm này đều vô hiệu. Tướng Anh Persi Lake được chỉ định làm tổng tư lệnh quân đội ở Mesopotami cũng hoạt động một cách thụ động. Các điệp viên của Vasmus báo cáo rằng lực lượng của ông ta còn ít; lương thực, đạn dược, thuốc men đều thiếu thốn, hơn thế nữa, các đường giao thông đều bị các bộ lạc đã phục vụ cho Vasmus tấn công. Thông tin này cho phép Golts tập trung mọi lực lượng bao vây pháo đài, không sợ Lake nữa. Một điệp viên của Vasmus còn cung cấp những thông tin quan trọng: lo sợ việc gia tăng ảnh hưởng của người Nga ở Mesopotami, Lake đã gạt bỏ yêu cầu muốn kết hợp với quân Anh ở Ba Tư và tiến hành các hoạt động quân sự phối hợp chống lại quân Thổ của bộ chỉ huy Nga.

Đã bốn lần Lake cố đem sức tàn để giải thoát cho Taunsgend, nhưng không có kết quả. Sau 143 ngày bị bao vây, các nguồn lương thực và đạn pháo đã cạn kiệt, ngày 29 tháng 4 năm 1916, cùng với 3 ngàn quân Anh và 6 ngàn quân Ấn Độ, Taunsgend đành phải giao nộp vũ khí ra hàng. Mesopotami là chiến trường duy nhất mà quân Thổ không bị thiệt hại.

Muốn loại trừ được đối thủ lợi hại như Vasmus, người Anh đã treo thưởng đến 3000 bảng Anh cho ai bắt sống hoặc giết chết được ông. Tiền thưởng ngày càng tăng lên, đến năm 1917 đã tăng tới 5 lần. Thật kỳ lạ, khoản tiền thưởng to lớn ấy chỉ làm cho người ta hoảng sợ: ở phương Đông mạng sống con người được đánh giá không cao, và không ai tin rằng một cái đầu lại trị giá đến như vậy.

Năm 1916, Vasmus muốn gây bạo loạn trong các bộ tộc ở Afganistan để đánh lừa quân Anh. Ông bỏ ra rất nhiều vàng, nhưng không thành công. Nhưng tình báo đường biển của ông lại hoạt động tốt, họ cung cấp thông tin về các chuyến vận chuyển quân sự đi từ ấn Độ, Australia và Tân Tây Lan. Năm 1916, ông trang bị cho những bộ tộc thượng võ để họ kìm chân hàng ngàn lính Anh. Người Anh đành phải đưa về vịnh Ba Tư 4 chiếc tầu quân sự chở quân tuần tiễu và tiến hành phong toả đường biển. Đoàn tầu này được gọi là “Hạm đội Vasmus”, chúng có nhiệm vụ chặn bắt những chiếc thuyền buồm mang tin tức tình báo và quân trang quân bị về cho Vasmus.

Tuy nhiên, nước Đức ngày càng suy yếu và vị thế của Vasmus cũng suy yếu theo. Ông phải thường xuyên lên gân đội quân của mình bằng những thông tin giả tạo về chiến thắng của quân Đức. Một lần ông tung tin rằng quân Đức đã chiếm được nước Anh, vua George đã bị treo cổ. Những người ở Ba Tư rất tin.

Vasmus lại có một kế hoạch mới. Ông nhờ một người vừa là bạn, vừa là trợ lý Brugman đến ấn Độ để lôi kéo giới lãnh đạo. Người Anh đã bẻ gẫy hoạt động này, họ bắt được Brugman và giam ông ta “đến khi chiến tranh kết thúc”. Trước đó họ cũng đã bắt được một đồng sự đáng tin cậy khác của ông là bác sĩ Thuỵ Điển Lindberg. Thế là Vasmus chỉ còn lại một mình giữa những bộ tộc đã bắt đầu có thái độ thù địch đối với ông. Từ châu Âu luôn luôn dội tới những tin tức về sự suy yếu của nước Đức, còn các thủ lĩnh ở Ba Tư thì đã nghiêng về phía những người chiến thắng.

Đến cuối năm 1918, nước Đức đã đứng bên bờ vực thất bại. Không còn ai tin Vasmus nữa. Các chủ nợ bắt đầu quấy nhiễu ông. Tháng 11 năm 1918, khi được tin ngừng bắn, bố vợ ông là Akhram đã khuyên ông chạy trốn. Vasmus biệt tăm, từ đó không ai biết tin tức gì về ông.

error: Content is protected !!