Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
II.
Cô chu nhập Quảng nguyệt sơ đông,
Lục thủy du du khách tứ nùng.
Long mẫu miếu tiền hồng diệp lạc,
Việt vương đài thượng bạch vân phong.
Càn khôn di hận nhân hà tại,
Kim cổ lưu sầu thủy tự đông.
Sương mãn giang thiên gia vạn lý,
Kinh hồi lữ mộng ngũ canh chung.
III.
Cửu chuyển hồi trường tự Khúc giang,
Quan sơn thiều đệ biệt Nam bang.
Hận thùy khinh bạc hoa lưu thủy,
Lân ngã thanh hàn nguyệt đáo song.
Sổ trước tranh tiên kỳ cục thắng,
Ngũ canh sát thoái thụy ma hàng.
Hốt văn sương lý mai hoa khúc,
Tưởng thị sơn thành cố quốc xoang.
IV.
Nhật chí sơ đông dạ niệm trì,
Thiên tương cảnh sắc cánh tương nghi.
Sương ngưng quất diệp châu thiên khỏa,
Tuyết điểm mai hoa ngọc nhất chi.
Quế lĩnh lĩnh đầu vân biến thái,
Ba giang giang thượng thủy lưu kỳ.
Anh hùng sự nghiệp đồng kim cổ,
Mãn mục sơn hà hữu sở tư.
V.
Thông thông cô nhạn độ Nam phi,
Viễn địa tiêu điều nhật tịch huy.
Than thượng khách thuyền kỵ thạch quá,
Khê tiền thôn nữ thái tang quy.
Vô biên lạc diệp mai hoa kính,
Bất tận khinh yên yểm trúc phi.
Hốt ức khứ niên kim nhật sự,
Triêu Dương các (1) thượng tứ hàn y.
VII.
Mạc đạo chu trung nhất sự vô,
Mỗi khan phong cảnh diệc kham ngu.
Mang quy tiều kính thiên sơn thụ,
Nhàn vạc ngư thuyền lưỡng ngạn lô.
Tuyết áp mai hồn hương cộng lãnh,
Giang lưu nguyệt sắc ảnh đồng cô.
Ly gia thùy vị nhân tiêu sách,
Thanh bạch thiên tương bạn viễn đồ. (2)
Dịch nghĩa: Năm Nhâm Tuất sứ bộ do đường thủy Quảng Đông đến Quảng Tây, họa thơ Trịnh Cấn Trai làm theo vần thơ lạp ông ba mươi bài (Chọn năm bài)
I.
Thuyền con vào Quảng đầu mùa đông,
Nước biếc man mác tứ khách nồng nàn.
Trước đền Long mẫu lá đỏ rụng,
Trên đài Việt vương mây trắng phong kín.
Trời đất còn lưu mối hận, người giờ ở đâu?
Cổ kim tuôn nỗi sầu, nước cứ chảy về đông.
Sương đầy trời sông, nhà xa muôn dặm,
Tiếng chuông canh năm khua tỉnh mộng nơi đất khách.
III.
Lòng quặn chín khúc giống như sông uốn khúc,
Quan san xa xôi từ biệt nước Nam.
Giận ai khinh bạc như hoa trôi theo nước chảy,
Thương ta trong lạnh như trăng đến song cửa.
Mấy cuộc cờ đã đánh thắng,
Năm canh đánh lùi ma ngủ bắt phải chịu hàng.
Bỗng nghe trong sương khúc Hoa Mai,
Ngờ là điệu nước cũ vẳng bên thành núi.
IV.
Ngày tới đầu đông đêm dần chậm,
Cảnh sắc trời thích nghi với người.
Sưng đọng trên lá quất như ngàn hạt châu,
Tuyết điểm hoa mai thành một cành ngọc.
Đầu núi Quế vẻ mây biến đổi,
Trên sông Ba nước chảy ngoặt sang hướng khác.
Sự nghiệp anh hùng dài với xưa nay,
Cảnh non sông trước mắt gợi lên điều suy nghĩ trong lòng.
V.
Vội vàng nhạn lẻ bay về Nam,
Chốn xa tiêu điều ánh mặt trời chiều tà.
Trên bãi thuyền khách cưỡi đá mà qua,
Trước khe gái quê đi hái dâu về.
Lá rụng tới tấp trên đường trồng hoa mai,
Khói nhẹ cuồn cuộn che lấp cửa tre.
Bỗng nhớ cũng ngày này năm trước,
Trên gác Triêu Dương được ban thưởng áo ngự hàn.
VII.
Đừng bảo trên thuyền không có việc gì làm,
Mỗi nhìn phong cảnh lại thấy vui vẻ trong lòng.
Ông tiều vội về trên đường cây nghìn núi,
Thuyền chài đậu nhàn đôi bờ lau sậy.
Tuyết đè hồn mai, hương cũng lạnh,
Sông lưu lại sắc trăng cùng với bóng lẻ loi.
Lìa nhà, ai bảo là người buồn bã,
Thanh bạch trời đem làm bạn đường xa.
Chú thích
(1): Triêu Dương các: ở thành Phú Xuân. Vào tháng mười năm Tân Dậu (1801) ông được vua Gia Long ban áo ngự hàn.
(2): Câu này ý Ngô Nhơn Tĩnh muốn nói mình vốn thanh bạch nên trời cũng đem cái thanh bạch của cảnh trời nước theo làm bạn đường với mình.
Hoài Anh dịch thơ
II.
Thuyền con vào Quảng đầu đông,
Nước xanh xui tứ khách nồng nàn khơi.
Đền Long mẫu lá đỏ rơi,
Phau phau mây trắng phong dài Việt vương.
Người đi, để mối hận trường,
Xưa nay nước chảy một đường về đông.
Nhà xa, sương ngập trời sông,
Chuông khua tỉnh giấc mơ mòng về quê.
III.
Lòng chín khúc tựa Khúc giang,
Quan san từ biệt Nam bang đến giờ.
Mặc ai nước đẩy hoa đưa,
Lòng ta trong lạnh: song thưa trăng vào.
Mấy bàn thắng, nước cờ cao,
Năm canh ma ngủ lao đao chịu hàng.
Khúc Mai Hoa vẳng trong sương,
Ngờ điệu nước cũ du dương sơn thành.
IV.
Tới đầu đông, đêm chậm đi,
Cảnh sắc trời rất thích nghi với người.
Đọng sương lá quất: châu ngời,
Hoa mai tuyết điểm: ngọc phơi một mình.
Vẻ mây núi Quế biến hình,
Sông Ba dòng nước chợt quành hướng đi.
Nghiệp anh hùng trải biến di,
Nhìn non sông, mối nghĩ suy càng nhiều.
V.
Về Nam nhạn lẻ vội vàng,
Chốn xa trong ánh tà dương lạnh lùng.
Thuyền cưỡi đá trên bãi nông,
Hái dâu cô gái đi vòng qua khe.
Đường mai lá đổ bộn bề,
Khói mờ cuồn cuộn lấp che cửa sài.
Nhớ năm trước cũng ngày này,
Gác Triêu Dương được áo dày thưởng ban.
VII.
Trong thuyền chẳng phải ngồi rồi,
Mỗi nhìn phong cảnh, ý vui rộn ràng.
Lối tiều cây núi ngút ngàn,
Đôi bờ lau mọc đậu ngang thuyền chài.
Lạnh hồn hương: tuyết đè mai,
Trăng cùng với bóng lẻ loi trên dòng.
Lìa nhà, không ảo não lòng,
Thanh bạch có sắc trời chung bạn đường.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.