Nguyên tác chữ Nho (*)
Phiên âm
Tứ hải phong trần tịnh,
Cửu thiên vũ lộ nùng.
Khứ niên phương ương chưởng,
Kim nhật tạm thung dung.
Gia viễn thư ưng trệ,
Quan nhàn ấn diệc phong.
Triêu triêu vân ngoại vọng,
Bất yếm thị quần phong.
Dịch nghĩa: Tạp cảm nơi đất khách
Bốn biển cơn gió bụi lặng,
Chín tầng trời mưa móc đượm nhuần.
Năm ngoái còn nắm dây vòng cổ ngựa,
Ngày nay tạm được thong dong.
Nhà xa thư thường đến chậm,
Việc quan nhàn ấn cũng phong lại.
Sáng sáng nhìn ngoài mây,
Cái không chán là dãy núi.
Hoài Anh dịch thơ
Bốn biển lặng cơn phong trần,
Chín trời mưa móc dượm nhuần thỏa mong.
Năm ngoái vó ngựa ruổi rong,
Hôm nay tạm được thong dong nhẹ người.
Nhà xa, thư chậm đến nơi,
Quan nhàn, ấn cũng phong rồi, vui thay!
Sớm sớm nhìn phía ngoài mây,
Nhìn nhau không chán ấy bầy núi kia.
(*): Tôi chưa tìm được bản gốc chữ Nho, sẽ bổ sung sau.